Hầu hết mọi người cho rằng sự thu hút cùng giới phải có cơ sở sinh học. Chắc chắn những cảm xúc tính dục của chúng ta dường như biểu hiện một khía cạnh sâu sắc và hấp dẫn của bản ngã chúng ta. Chúng ta thấy tự nhiên khi hành động theo những cảm xúc đó. Nhưng như chúng ta đã thấy trong chương 1 (có thể sẽ hữu ích nếu bạn đọc lại chương này), các nhà khoa học chưa phát hiện ra bất kỳ nguyên nhân sinh học rõ ràng nào.3
Nhiều nhà khoa học xem các nghiên cứu về cặp song sinh giống hệt nhau là dạng chứng cứ đáng tin cậy nhất, và những nghiên cứu đó dường như không ủng hộ giả thuyết về nguyên nhân di truyền.4 Francis Collins, giám đốc Dự án Human Genome và nhà di truyền học nổi tiếng nhất của Mỹ, viết rằng “xu hướng tính dục bị ảnh hưởng bởi di truyền nhưng không bị lập trình sẵn bởi DNA, và rằng các gen nào liên quan đến điều này thể hiện khuynh hướng chứ không phải là sự tiền định”.5 Tóm lại, chúng ta không phải chấp nhận thuyết định mệnh về di truyền.
Tuy nhiên, mọi người ở cả hai khía cạnh của vấn đề có thể đã đặt quá nhiều sự chú ý vào việc tranh luận về di truyền. Mọi người đều nhận ra rằng ngay cả những đặc điểm có cơ sở di truyền cũng không nhất thiết là tốt cho chúng ta. Lady Gaga có thể hát, “Tôi được sinh ra như thế” nhưng ngay cả nhà hoạt động đồng tính John Corvino cũng viết, “Không quan trọng liệu chúng ta sinh ra như thế hay không. Thực tế là có nhiều đặc điểm bị ảnh hưởng di truyền nhưng không đáng mong muốn.”6 Khuynh hướng đối với các vấn đề như trầm cảm, nghiện rượu, nghiện ma túy và bệnh tim là có thể do di truyền (chúng thường di truyền trong gia đình). Nhưng hầu hết mọi người đồng ý rằng chúng ta có trách nhiệm luân lý với cách chúng ta sử dụng di sản di truyền của mình. Tìm ra mối liên kết di truyền có thể giúp chúng ta đồng cảm hơn với mọi người, nhưng di truyền không nói cho chúng ta biết liệu một hành vi là đúng hay sai, tốt hay xấu cho chúng ta.
Hơn nữa, “gen không cố định; các sự kiện cuộc sống có thể kích hoạt tín hiệu hóa học khiến chúng bật hoặc tắt,” nhà tâm thần học Bessel van der Klok viết.7 Điều này không có nghĩa là chúng ta có khả năng kiểm soát gen của mình theo ý muốn. Nhưng nó có nghĩa là chúng ta không nên kết luận rằng nếu một đặc điểm là di truyền, thì nó cố định và không thể thay đổi.
Một số nhà nghiên cứu trả lời rằng ngay cả khi ham muốn tình dục không phải là di truyền, nó vẫn có thể có nguồn gốc sinh học – trong các hormone tiền sinh hoặc trong cấu trúc não. Ví dụ, một số nghiên cứu phát hiện sự khác biệt về kích thước của các vùng khác nhau của não ở những người đàn ông đồng tính so với những người đàn ông dị tính. Nhưng sự khác biệt về não cũng có thể bị ảnh hưởng bởi trải nghiệm. Một bài báo của New York Times báo cáo rằng, “Phần não xử lý điều hướng được mở rộng ở các tài xế taxi London, cũng như vùng xử lý chuyển động của ngón tay của tay trái ở những nghệ sĩ violin thuận tay phải.”8 Là một nghệ sĩ violin, tôi thấy điều này thú vị.
Các nghiên cứu khác đo lường các liên hệ vật lý của kích thích tình dục. Nếu bạn nối dây các người đàn ông vào một máy MRI (chụp cộng hưởng từ) và cho họ xem ảnh khỏa thân, não của một người đàn ông bị thu hút bởi phụ nữ sáng lên khi thấy một người phụ nữ, trong khi não của một người đàn ông bị thu hút bởi đàn ông sáng lên khi thấy một người đàn ông. Một sự khác biệt tương tự xảy ra khi các nhà nghiên cứu nối dây các người đàn ông vào một máy đo phản ứng sinh dục với ảnh. Nhiều nhà nghiên cứu tình dục kết luận từ những nghiên cứu này rằng ham muốn tình dục là bẩm sinh và cố định.9
Nhưng kết luận đó không đúng. Khuôn mẫu của não không cố định. Trong chương 4, chúng ta đã học về khả năng tái tạo của não liên quan đến khiêu dâm – làm thế nào nó thực sự tái tạo lại các con đường thần kinh của não. Các nhà sinh học thần kinh đã phát hiện rằng não cũng có thể bị tái tạo lại bởi sang chấn tâm lý, bất kể là lạm dụng thời thơ ấu, chiến tranh quân sự hay tai nạn ô tô. Khi mọi người hồi tưởng lại chấn thương, não của họ sáng lên như cây Giáng sinh (đặc biệt là amygdala, phần não xử lý các mối đe dọa). Và những khuôn mẫu đó cũng không cố định. Các quét não được chụp trước và sau trị liệu sang chấn tâm lý cho thấy các đường dẫn truyền thần kinh có thể được tái tạo lại. Như van der Klok viết, trị liệu tâm lý có thể “thay đổi bối cảnh của amygdala”.10
Thậm chí tôn giáo cũng có các liên hệ thể lý. Các MRI cho thấy những khu vực nào của não hoạt động khi mọi người có trải nghiệm tôn giáo. Khi các nữ tu Công giáo cầu nguyện hoặc các tu sĩ Phật giáo thiền định, họ tạo ra các quét não tương tự. Điều này có nghĩa là trở thành một nữ tu hay tu sĩ là điều cố định, bẩm sinh và được lập trình trong di truyền? Tất nhiên là không. Vậy tại sao lại đưa ra kết luận đó từ các quét não cho thấy các phản ứng tính dục?
Những gì các nghiên cứu thực sự cho thấy là chúng ta là những thực thể có thân xác; suy nghĩ và mong muốn của chúng ta có liên hệ vật lý trong não.11 Trong các nghiên cứu về buồn bã, tức giận, hạnh phúc và sợ hãi, van der Klok nói rằng “các quét não cho thấy mỗi loại cảm xúc tạo ra một khuôn mẫu đặc trưng, khác biệt với các loại khác”.12 Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi cảm xúc tình dục tạo ra các phản ứng thể lý. Khoa học đang nhấn mạnh sự thật rằng con người là các thực thể gồm thân/trí – chính xác như Kitô giáo dạy. Suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta ảnh hưởng đến cơ thể chúng ta. Như sách Châm ngôn nói, “Tin tức may lành khiến xương cốt vững vàng,” và “Tâm trí hân hoan làm thân xác lành mạnh, tinh thần suy sụp khiến xương cốt rã rời” (Châm ngôn 15:30; 17:22).
Điều thú vị là liên hệ đáng tin cậy nhất với sự đồng tính luyến ái không phải là bất kỳ đặc điểm di truyền hay vật lý nào mà là một đặc điểm hành vi: Các nghiên cứu phát hiện rằng “không tuân thủ các chuẩn mực giới tính trong thời thơ ấu – hành động giống giới tính khác – là một liên hệ mạnh mẽ với xu hướng tính dục ở người lớn, điều đã được lặp lại và xác nhận liên tục.”13 Vì liên hệ này được hỗ trợ mạnh mẽ bởi các nghiên cứu, chúng ta sẽ đề cập chi tiết hơn trong chương 6. (Hai chương này nên được đọc cùng với nhau.)
3. Theo quan điểm tiến hóa, sự thu hút đồng giới rõ ràng là không do thích nghi vì những người đồng tính không sinh sản. Nhiều thuyết khác nhau đã được đề xuất để bù đắp cho bất lợi về mặt sinh sản; ví dụ, nam giới đồng tính góp phần vào sự thành công sinh sản của chị em gái mình bằng cách trở thành những người chú nuôi dưỡng. Nhưng giả thuyết này không được khoa học hỗ trợ. Xem J. Michael Bailey et al., “Sexual Orientation, Controversy, and Science,” Psychological Science in the Public Interest 17, no. 2 (2016).
4. Stanton L. Jones của Wheaton College báo cáo về một nghiên cứu rộng lớn về cặp song sinh giống hệt nhau sử dụng Swedish Twin Registry. Trong số bảy mươi mốt cặp song sinh nam giống hệt nhau mà ít nhất một cặp tự nhận là đồng tính, chỉ có bảy trường hợp (9,8%) người thứ hai trong cặp song sinh cũng tự nhận là đồng tính, điều này không được coi là có ý nghĩa trong thống kê:
Các nghiên cứu gần đây cho thấy các yếu tố gia đình, văn hóa và các yếu tố môi trường khác góp phần vào sự hấp dẫn đồng giới. Gia đình tan vỡ, sự vắng mặt của người cha, mẹ lớn tuổi và sinh ra và sống ở khu vực thành thị đều có liên quan đến trải nghiệm hoặc sự hấp dẫn đồng tính. Ngay cả yếu tố bị chê bỏ nhất trong số những yếu tố giả thuyết cho là nguyên nhân, lạm dụng tình dục trẻ em, gần đây đã nhận được sự xác nhận thực nghiệm đáng kể rằng đó là một yếu tố góp phần từ một nghiên cứu phức tạp kéo dài ba mươi năm được công bố trên Archives of Sexual Behavior. . . . Việc nói rằng các biến số tâm lý và môi trường đóng vai trò trong nguyên nhân không có nghĩa là sinh học không có vai trò, mà chỉ là không đến mức mà nhiều học giả ủng hộ người đồng tính tuyên bố. (Jones, “Same-Sex Science”)
Trong một tờ hướng dẫn, American Psychological Association tuyên bố, “Mặc dù nhiều nghiên cứu đã xem xét những ảnh hưởng có thể có về mặt di truyền, nội tiết tố, phát triển, xã hội và văn hóa đối với khuynh hướng tình dục, nhưng không có phát hiện nào cho phép các nhà khoa học kết luận rằng khuynh hướng tình dục được xác định bởi bất kỳ yếu tố hoặc các yếu tố cụ thể nào”. “Answers to Your Questions: For a Better Understanding of Sexual Orientation & Homosexuality,” 2008, http://www.apa.org
/topics/lgbt/orientation.pdf. Nghiên cứu gần đây cho thấy các yếu tố môi trường có thể đóng một vai trò, mặc dù ở giai đoạn đầu đời, chúng không phải là do lựa chọn. Xem Sarah Knapton, “Homosexuality ‘May Be Triggered by Environment after Birth’,” The Telegraph, October 8, 2015.
5. Francis Collins, Ngôn Ngữ Của Chúa / The Language of God (New York: Simon & Schuster, 2006), 260.
6. John Corvino, “Nature? Nurture? It Doesn’t Matter,” The Gay Moralist, August 12, 2004, http://johncorvino.com/2004/08/nature-nurture-it-doesnt-matter/, italics in original.
7. Bessel van der Kolk, The Body Keeps the Score (New York: Viking, 2014), 152.
8. Elinor Burkett, “What Makes a Woman?,” New York Times, June 6, 2015.
9. J. Michael Bailey, người đã tiến hành một số nghiên cứu này, kết luận, “Khuynh hướng tình dục của nam giới là bẩm sinh.” See “Sexual Orientation: Nature or Nurture?,” What’s the Story? A Multidisciplinary Discussion of Same-Sex Marriage & Religious Liberty, symposium, December 11, 2007, The Catholic University of America, Columbus School of Law, Interdisciplinary Program in Law & Religion, Washington, DC.
10. Van der Kolk, Body Keeps the Score, 297. Thực tế là hạch hạnh nhân có thể được tái tạo lại thì đặc biệt xác đáng vì một số nghiên cứu đã tập trung vào vai trò của hạch hạnh nhân trong phản ứng tình dục. Chẳng hạn Nikhil Swaminathan, “Brain Scans Provide Evidence That Sexual Orientation Is Biological,” Scientific American, June 16, 2008.
11. Anthony Newberg and Mark Robert Waldman, How God Changes Your Brain (New York: Ballantine, 2009); Andrew Newberg and Eugene D’Aquill, “Why God Won’t Go Away: Brain Science & the Biology of Belief,” Andrew Newberg (blog), http://www.andrewnewberg.com/books/why-god-wont-go-away-brain-science-the-biology-of-belief.
12. Van der Kolk, Body Keeps the Score, 95.
13. “Trẻ em lớn lên mà không phải là người dị tính thì trung bình có xu hướng không tuân theo chuẩn mực giới tính nhiều hơn so với trẻ em lớn lên mà là người dị tính.” J. Michael Bailey et. al, “Sexual Orientation, Controversy, and Science,” Association for Psychological Science 17, no. 2 (2016): 45–101. Một nghiên cứu khác kết luận rằng “hành vi không tuân thủ giới tính thời thơ ấu là một yếu tố dự báo sớm nhất quán về xu hướng không dị tính trong tương lai.” Gu Li, Karson T. F. Kung, and Melissa Hines, “Childhood Gender-Typed Behavior and Adolescent Sexual Orientation: A Longitudinal Population-Based Study,” Developmental Psychology, February 20, 2017.
Leave a Reply