Bài này được chuyển ngữ từ Systems of Grace by Melinda Selmys
Tôi đã viết lần trước rằng đức trong sạch là một ân sủng, không là một điều kiện hay một yêu cầu. Đây là điểm về Giới Luật thường bị hiểu lầm nhưng Giới Luật lại được nói rất nhiều trong Kinh Thánh. Thánh Vịnh 119 cho chúng ta thấy bức chân dung mà Giới Luật đáng lẽ phải được nhìn thấy trong trái tim con người: “Xin tỏ lòng nhân hậu cùng tôi tớ Chúa đây để con được sống và tuân giữ lời Ngài. Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao. Ở trên đời, con là thân lữ khách, mệnh lệnh Ngài, xin đừng nỡ giấu con. Hồn con những khát khao mòn mỏi, hằng chờ mong quyết định của Ngài.” Từ đó, lời thánh vịnh tiếp tục khi tác giả thánh vịnh phấn khởi nói ông yêu điều răn của Chúa chừng nào, giới luật Chúa đã đem đến hy vọng cho ông, an ủi ông biết bao trong nỗi sầu khổ, giới luật giữ ông sống. Điều này vang vọng trong sách Đệ Nhị Luật nơi Thiên Chúa đặt ra những lời chúc lành sẽ đến với những người tuân giữ giới luật (x Đnl 28:1-14). Những ai làm theo thánh ý của Chúa được hứa rằng sẽ tìm ấy niềm vui, thịnh vượng, tăng trưởng và sự sống dồi dào.
Thánh Phaolô phát triển điểm này trong bài giảng về Luật trong lá thư cùa ngài với các tín hữu ở Galát, nhưng ngài chuyển hướng lời dạy của ngài theo hướng mới: “Những ai dựa vào những việc Luật dạy phải làm thì đều chuốc lấy lời nguyền rủa, vì Kinh Thánh viết: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ không bền chí thi hành tất cả những gì chép trong sách Luật. Giới Luật sẽ không công chính hóa bất cứ ai trước mặt Thiên Chúa bởi vì chúng ta đã được bảo: người công chính tìm được sự sống nhờ đức tin. Giới luật không được đặt trên nền tảng đức tin vì có lời chép: Người thực hành những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống. Đức Kitô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật, khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ! (Gl 3:10-13).
Giải nghĩa điểm thánh Phaolô muốn nói ở đây có thể giúp chúng ta hiểu điểm Giáo Lý dạy khi diễn tả đức khiết tịnh như là một “ân sủng”, một món quà. Điểm mà thánh Phaolô đề cập tới là có một xu hướng giữa các tín hữu, dù là các tín hữu Do-thái giáo thời của Phaolô, hay là các tín hữu Công Giáo thời chúng ta, dễ nghĩ rằng nhờ việc sống theo Giới Luật thì cách nào đó chúng ta tự làm cho mình xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ. Phaolô căn bản nói rằng điều này vô nghĩa, là lời nhảm nhí. Không ai có thể được cứu rỗi nhờ Giới Luật vì không ai có thể giữ những điều luật: “Kinh Thánh cho biếtkhông có trường hợp ngoại lệ khi nói rằng tội lỗi làm chủ khắp mọi nơi” (Galát 3:22 NJB).
Ý tưởng chúng ta có thể đảm bảo cho mình một nơi trên thiên đàng nhờ việc tuân giữ các điều răn và tránh tội trọng không chỉ là điều ngớ ngẩn mà còn là điều nguy hiểm. Nó đưa đến việc tin tưởng cách sai lầm là con người có khả năng, bằng những nỗ lực riêng của họ, chiếm được ân sủng cứu độ không ai đáng được hưởng và không thể chiếm được.
Vậy thì Giới Luật để làm gì? Nó có hai phần. Trước hết, để người tội lỗi biết chúng ta là những tội nhân. Chúng ta thường là người mù để thấy những điều chúng ta làm thực sự ngu ngốc và tự chuốc lấy thất bại thế nào, và chúng ta có thói quen đổ tội cho những người khác khi những quyết định của chúng ta đưa đến những kết quả tệ hại. Giới Luật cho chúng ta biết rằng, không, nó không là lỗi của người khác, và đúng, đó thật là một điều không tốt lành. Giới luật là sự xác nhận của thực tế để giúp chúng ta không lặp đi lặp lại điều ngu ngốc và hy vọng rằng kết quả mỗi lần sẽ khác nhau. Điều thứ hai mà Giới Luật đem đến là sự hướng dẫn về cách sống một đời tốt lành và hạnh phúc. Khi Chúa phán lời chúc lành trên những người giữ giới răn của Ngài, không vì Ngài dùng hệ thống luân lý thưởng phạt những là vì giữ giới luật là cách mà qua đó những chúc lành và ân sủng có thể đi vào đời sống của chúng ta. Các điều răn là bản đồ kế hoạch để xây dựng hệ thống thủy lợi qua đó tình yêu của Thiên Chúa chảy vào trong tâm hồn và trong xã hội.
Và bây giờ chúng ta gặp câu hỏi khó khăn: Nếu Giới Luật là nguồn phúc lành và niềm vui, tại sao nhiều người trải nghiệm nó như là nguồn gây ra đau khổ và tuyệt vọng? Sự cám dỗ ở đây là nói “Những người ấy là những kẻ ác độc. Họ có trái tim xấu xa và những ao ước của họ là để chống lại Chúa. Họ không sẵn sàng để đón nhận những sự tốt lành mà Chúa trao ban họ vì ước muốn của họ đồi bại và ngang bướng.” Đây là cách rất không hay để giải thích về câu hỏi khó khăn này. Lý do lớn nhất mà người ta cảm nghiệm Giới Luật như nguồn mạch của những đau khổ là vì thay vì nguồn mạch của ân sủng thì ống dẫn mà nhờ đó ân sủng được tuôn đổ vào đời sống của họ bị chặn nghẽn ở nơi nào đó. Đây là điểm mà Dostoyevski đã viết qua vị linh mục Zossima khi ông ta nói: “Tất cả mọi người lãnh trách nhiệm cho mọi người khác.” Nếu ai đó thường trải qua quá trình đau đớn của việc vỡ hoang mảnh đất của trái tim và đào mương thủy lợi và rồi ân sủng không trôi vào, họ sẽ cảm nghiệm hạn hán và cơn khát thay vì đón nhận nước sự sống.
Trong trường hợp của cộng đồng đồng tính, phước lành mà đức trong sạch trao ban là phước lành của tình bạn vô vị lợi. Nhiều người lầm khi tin rằng tình bạn như thế thì cách nào đó là một hình thức hạ giá, suy thoái của tình yêu hay một hình thức thấp kém hơn tình yêu, một thứ giải thưởng an ủi cho những người đồng tính thay vì một tình yêu toại nguyện, gợi tình hơn. Điều này không đúng. Tình bạn chân thật đem lại nhiều toại nguyện hơn, không thua gì tình yêu của ái tính. Ái tính, ao ước, thì theo bản năng đòi hỏi và đói khát, điểm mà Socrates (nhà triết lý Hy-lạp cổ điển 469-399 B.C.) đã đưa ra nơi Symposium. Ngay cả trong hôn nhân, để biến đổi tình yêu này trở thành một sự trao ban quảng đại trung thực là một quá trình dài và khó khăn. Nó là một việc có thể xảy ra chỉ vì con cái được sinh ra để lôi kéo cặp hôn nhân ra khỏi chính mình và ra khỏi vòng tròn của nhu cầu và sự đáp ứng – những đặc tính bản năng của ái tình. Tình bạn thì quảng đại hơn nhiều và có khả năng hơn để nhìn thấy và hiểu rõ cách trọn vẹn người kia vì tầm nhìn của chúng ta về người được thương yêu không bị che khuất bởi những ham muốn cá nhân.
Tuy nhiên, sự thật này chỉ là một lời nói trống rỗng nếu chỉ có một số it ỏi những người bạn vô vị lợi trong cộng đoàn Kitô hữu sẵn sàng chân thành dâng hiến chính mình cho những người đồng tính hoán cải. Quá nhiều lần, những người nam nữ đồng tính muốn tìm hiểu và cảm nghiệm tình yêu của Chúa Kitô trong cộng đoàn chúng ta nhưng lại thấy mình trải nghiệm sự cô đơn khủng khiếp và bị bỏ rơi—không phải vì trái tim họ đang khao khát trái cấm dâm dục của hoạt động đồng tính, nhưng vì không ai tiến đến để trao tặng cho họ ân sủng của tình bạn mà Thiên Chúa ước muốn trao ban. Phải đối mặt với thứ cô đơn đau đớn này hầu như là không ai có thể tránh việc tự an ủi mình với những thú vui tạm thời và chán chường. Cảm giác về sự ghê tởm chính bản thân mà sự cô đơn tột cùng này đưa đến có xu hướng gây nên sự áp đảo đủ để những người này chỉ muốn rời bỏ cộng đoàn Kitô Giáo. Sau khi được hứa sẽ có bánh và lại được trao hòn đá, họ sẽ thận trọng để tin vào lời hứa của chúng ta lần nữa.
Đây là lý do tại sao Chúa Kitô cảnh báo lại việc đặt gánh nặng trên vai người khác mà không hề đưa ngón tay ra để động vào chúng. Để ý ở đây rằng Đức Kitô diễn tả gánh nặng ấy “không thể gánh nổi.” (x. Luca 11:46) Nếu không có hành động của ân sủng hoạt động qua Giáo Hội nơi mọi thành viên của Giáo Hội, Giới Luật ngưng đem đến sự chúc lành và trở nên lời nguyền rủa. Đó là tại sao việc rao giảng sự tội lỗi của đời sống đồng tính chỉ là biện luận trống rỗng, tự tôn vinh mình trừ khi chúng ta sẵn sàng để thực thi các nỗ lực để xây dựng một hệ thống ân sủng dẫn nguồn nước đến hạt giống mà Đức Kitô đã trồng trong linh hồn của những người Thiên Chúa yêu thương.
Leave a Reply