Nhiều người định nghĩa tự nhiên qua bất cứ điều gì họ cảm nhận. Nếu họ cảm thấy một hấp lực với điều gì đó, họ cho rằng điều ấy phải là điều tốt và tự nhiên. Đó là văn hoá của chúng ta nói cách ngắn gọn: nếu cảm thấy tốt thì làm nó. Nhưng những gì lôi cuốn tôi không xác định nếu hành động của tôi hợp với tính đạo đức. Chẳng hạn như một người chồng có thể bị thu hút bởi cô thư ký, nhưng cảm xúc “tự nhiên” này không làm cho việc anh ta lừa vợ mình trở nên tốt.
Tôi bàn luận về luân lý của hành vi đồng tính trong một câu hỏi khác, vậy chúng ta ở đây hãy nhìn xem hành vi này “tự nhiên” thế nào. Khi tôi dùng từ thuộc về tự nhiên, tôi muốn nói về thiết kế/chỉ định có thể tìm thấy trong thế giới tự nhiên. Chẳng hạn, cây cối được sống bên ngoài dưới ánh sáng mặt trời là việc tự nhiên. Nếu bỏ nó trong cái tủ, nó sẽ chết vì đó không là môi trường tự nhiên nó được dựng nên để sinh sống. Khi sự vật được đặt trong môi trường tự nhiên của nó, và theo kế hoạch mà nó đã được dựng nên, chúng nó sinh sôi nảy nở. Khi luật tự nhiên bị xâm phạm, sự việc trở nên méo lệch.
Hãy xem điều này được áp dụng thế nào trong lãnh vực tình dục, xem xét cách cơ thể người đàn ông hoạt động với người nữ trong hoạt động tình dục.
Trước tiên, thân thể người nam không có ý nghĩa nếu không có thân thể người nữ. Nó cũng như vậy với thân thể người nữ. Họ bổ sung cho nhau. Ví dụ, tinh trùng và trứng không có mục đích gì khi tách riêng biệt. Thế mà, mọi người có trên trái đất này nhờ sự kết hợp của hai người.
Nói theo kiểu cách kỹ thuật hơn, tinh trùng của người nam là thứ bên ngoài hệ thống sinh sản của người nữ, và phản ứng tự nhiên của cơ thể người nữ là coi tinh trùng như vật lạ và phải bị tống ra. Để làm việc này, cơ thể người nữ thường dùng tế bào bạch huyết tấn công vật lạ để giữ gìn sức khỏe cho tử cung. Nhưng có một chất liệu trong tế bào tinh trùng của người nam và trong tinh dịch nói với hệ thống miễn dịch của người nữ đừng tấn công. Cũng vậy, tính chất alkaline của tinh dục là lớp che và thay đổi tính chất axít của đường của hệ thống sinh sản của người nữ và cho phép tinh trùng để nó có thể di chuyển an toàn đến trái trứng để làm nó thụ tinh. Trong khi có hành động hôn nhân này, cặp vợ chồng nhìn nhau mặt đối mặt, đôi mắt gặp đôi mắt.
Nó cũng được khám phá rằng số lượng tinh trùng và tinh dịch không cần để làm thụ thai được hấp thụ trong tử cung người nữ và cung cấp nó với prostaglandins (tiền tuyệt tuyến tố). (Trong nó có hơn 30 hợp chất khác. Xem video của Vicki Thorn). Chúng nó chuẩn bị tử cung để sự sống mới cùng một loại gene với tinh trùng có thể sinh sống. Nếu cái thai cấy nhau trong dạ của người nữ, nó sẽ là một cái thai mạnh khỏe hơn. Nếu người nữ ấy có nhiều bạn nam, hay dùng phương pháp ngừa thai nhân tạo, cái thai thường gặp nhiều khó khăn hơn vì người nữ có nhiều nguy hiểm hơn về việc tiền sản giật (preeclampsia). Có sự thiết kế/quy định trong cơ thể không chỉ cho quan hệ nam nữ mà còn là quan hệ của một vợ, một chồng.
Tuy nhiên, nếu hai người nam có quan hệ tình dục qua hậu môn, vì tinh trùng được thiết kế để kiềm chế hệ miễn dịch, nó có thể thật sự gia tăng việc nhiễm hậu môn của họ, và việc lây nhiễm một số bệnh như HIV. Tinh trùng vì thế bị phí phạm, và không có mục đích nào cả. Nói chung, cơ thể chịu thiệt hại lớn. Chẳng hạn như, nam giới đồng tính luyến ái dễ bị ung thư hậu môn ( vì HPV ), [ 2 ] bệnh đã nhiễm hơn 90% nam giới đồng tính đang mắc bệnh HIV và 65% của người nam đồng tính không mắc bệnh HIV.[3] Họ cũng dễ bị nhiễm bệnh viêm gan [4] và bệnh lậu họng.[5] Nguy hiểm để mắc chứng giang mai giữa những người đồng tính tăng gấp 10 lần so với người có quan hệ nam nữ, [6] và vì thế làm họ dễ bị nhiễm HIV gấp 2 đến 5 lần. [7] Họ cũng có thể bị điều thường được gọi là “Hội chứng ruột của người đồng tính” vì vi khuẩn từ phân đi vào hệ thống tiêu hóa, và gây ra hàng loạt vấn đề về sức khỏe. [8] Nam giới đồng tính dễ bị HVI nhất, [9] và nay nửa con số những trường hợp mắc bệnh Xi-đa mới được thống kê giữa những người nam đồng tính luyến ái trẻ tuổi. [10]
Đồng tính nữ cũng bị đe dọa vì đa số những người trong họ đã có quan hệ với những người nam khác, và vì thế họ thường tham gia vào các hoạt động với các người nữ khác mà những người nữ này có thể truyền bệnh qua đường tình dục chẳng hạn HPV. [11] Họ cũng có lẽ có nhiều bạn qua quan hệ tình dục hơn là những người nữ có quan hệ với nam giới. Tờ báo The Washington Blade, là một tờ báo ủng hộ đồng tính luyến ái, cho biết rằng “phần lớn ‘người đồng tính nữ’ có thống kê rằng họ thường có quan hệ tình dục với người nam (thường là người nam có nguy cơ đã bị nhiễm)” [12] Một nghiên cứu khác cũng cho biết “Cho người nữ có quan hệ tình dục với người nữ (NTDN), số međian (thống kê) của bạn tình nam giới họ cao hơn những người sống tiết độ (12 so với 6). NTDN dễ dàng thống kê hơn 50 bạn tình nam giới trong quảng đời họ.
Khi một phụ nữ lưỡng tính, cô ấy dễ bị nhiễm bệnh qua đường tình dục cao hơn người dị tính. Những trung tâm kiểm soát dịch bệnh khẳng định rằng người lưỡng tính là một chiếc cầu trung gian lây bệnh HIV cho nữ giới. Thậm chí những mối quan hệ nữ đồng tính “đóng kín, có chọn lọc” mang một nguy cơ cao lây truyền bệnh qua đường tình dục bởi vì họ “cách đáng kể thường báo cáo về tình dục dục trong quá khứ với người đồng tính hay lưỡng tính và quan hệ tình dục với một người đã dùng thuốc qua tĩnh mạch của họ.”
Tờ tập san “Sexually Transmitted Infections/Những bệnh nhiễm trùng qua đường tình dục” đã nghiên cứu 1408 những nữ đồng tính, và tìm thấy họ có nguy cơ cao hơn về một số bệnh riêng biệt qua đường tình dục, như “ bacterial vaginosis, viêm gan C, và HIV.”[17]
Đúng vậy, những nguy cơ đến sức khỏe không chứng minh tính trái luân lý của hành vi đồng tính. Trái lại, chúng là dấu hiệu biểu thị rằng cơ thể chúng ta được tạo ra không phải để hoạt động theo cách đó. Hành vi giới tính được sử dụng dành riêng cho các cặp đôi vợ chồng dị tính nghe có vẻ hẹp hòi, nhưng điều đó đơn giản là cách trái tim và thân xác của chúng ta được tạo nên.
Bài này được dịch từ How can people say that homosexuality isn’t natural?
________________________
[1]. S.A. Robertson, et al., “Transforming Growth Factor Beta—A Mediator of Immune Deviation in Seminal Plasma,” Journal of Reproductive Immunology 57:1–2 (October/November 2002), 109–128; Douglas Fox, “Gentle Persuasion,” New Scientist (February 9, 2002); Douglas Fox, “Why Sex, Really?” U.S. News and World Report (October 21, 2002), 60–62; S.A. Robertson, et al., “The Role of Semen in Induction of Maternal Immune Tolerance to Pregnancy,” Seminars in Immunology 13 (2001), 243; John B. Wilks, A Consumer’s Guide to the Pill and Other Drugs, 2nd ed. (Stafford, Va.: American Life League, Inc., 1997), 136; H. S. Klonoff-Cohen, et al., “An Epidemiologic Study of Contraception and Preeclampsia,” The Journal of the American Medical Association 262:22 (December 8, 1989), 3143–3147; S.A. Robertson, et al., “Seminal ‘Priming’ for Protection from Pre-Eclampsia: A Unifying Hypothesis,” Journal of Reproductive Immunology 59:2 (August 2003), 253–265; G.R. Verwoerd, et al., “Primipaternity and Duration of Exposure to Sperm Antigens as Risk Factors for Pre-eclampsia,” International Journal of Gynaecology and Obstetrics 78:2 (August 2002), 121–126; J. I. Einarsson, et al., “Sperm Exposure and Development of Preeclampsia,” American Journal of Obstetrics and Gynecology 188:5 (May 2003), 1241–1243; M. Hernandez-Valencia, et al., “[Barrier Family Planning Methods as Risk Factors Which Predisposes to Preeclampsia],” Ginecologia y Obstetrica de Mexico 68 (August 2000), 333–338; Dekker, et al., “Immune Maladaptation in the Etiology of Preeclampsia: A Review of Corroborative Epidemiologic Studies,” Obstetrical and Gynecological Survey 53:6 (June 1998), 377–382.
[2]. Bob Roehr, "Anal Cancer and You," Between the Lines News (November 16, 2000). Richard A. Zmuda,
[3]. "Rising Rates of Anal Cancer for Gay Men," Cancer News (August 17, 2000). Available at: cancerlinksusa.com/cancernews_sm/Aug2000/081700analcancer.
[4]. "Viral Hepatitus B–Frequently Asked Questions," National Center for Infectious Diseases (Centers for Disease Control and Prevention)September 29, 2000. Available at: www.cdc.gov/ncidod/diseases/hepatitis/b/faqb.
[5]. SPR Jebakumar et al., "Value of Screeningfor Oropharyngeal Chlamydia Trachomatis Infection," Journal of Clinical Pathology 48 (1995): 658-661.
[6]. C. M. Hutchinson et al., "Characteristics of Patients with Syphilis Attending Baltimore STD Clinics," Archives of Internal Medicine 151 (1991): 511-516.
[7]. "Syphilis Elimination: History in the Making," Division of Sexually Transmitted Diseases (Centers for Disease Control and Prevention) October 1999.
[8]. Health Implications Associated with Homosexuality (Austin: The Medical Institute for Sexual Health, 1999), p. 56.
[9]. "Table 9. Male Adult/Adolescent AIDS Cases by Exposure Category and Race/Ethnicity, Reported through December 1999, United States," Centers for Disease Control and Prevention: Division of HIV/AIDS Prevention: available at: www/cdc.gov/hiv/stats/hasr1102/table9.
[10]. "Young People at Risk: HIV/AIDS among America’s Youth," Divisions of HIV/AIDS Prevention (Centers for Disease Control)November 14, 2000. Available at: www.cdc.gov/hiv/pubs/facts/youth.htm.
[11]. Rhonda Smith, "HPV Can be Transmitted between Women," The Washington Blade (December 4, 1998).
[12]. Katherine Fethers et al., "Sexually Transmitted Infections and Risk Behaviors in Women Who Have Sex with Women," Sexually Transmitted Infections 76 (2000):348.
[13]. Ibid., p. 347.
[14]. V. Gonzales, et al., "Sexual and Drug-Use Risk Factors for hiv and STDs: A Comparison of Women with and without Bisexual Experiences," American Journal of Public Health 89 (December 1999): 1846.
[15]. "Bisexuals Serve as ‘Bridge’ Infecting Women with HIV," Reuters News Service (July 30, 2000).
[16]. Katherine Fethers et al., "Sexually Transmitted Infections and Risk Behaviors in Women Who Have Sex with Women," Sexually Transmitted Infections 76 (2000):347.
[17]. Katherine Fethers et al., "Sexually Transmitted Infections and Risk Behaviors in Women Who Have Sex with Women," Sexually Transmitted Infections, July 2000, p. 345.
Leave a Reply