Nguyên nhân của đồng tính luyến ái chưa được hiểu thấu đáo đầy đủ, và những người phải chống cự với những cám dỗ về lãnh vực này không chọn hoặc không muốn chúng. Có nhiều cuộc tranh luận về nguyên nhân trong tự nhiên thay vì sự dưỡng dục, nhưng các nhà khoa học không thể tìm thấy một nguyên nhân di truyền gây ra đồng tính. Bác sĩ Dean Hamer (người đặt ra cụm từ “gen đồng tính”) nói rằng “Chúng ta chưa tìm thấy gen – thứ mà chúng tôi không nghĩ nó tồn tại – cho khuynh hướng tình dục.”1 Một cuộc nghiên cứu khác kết luận: “Bài đánh giá chứng tỏ bằng chứng nghiêng về học thuyết sinh học (di truyền) thì không đủ.”2 Có thể có những nhân tố di truyền vẫn chưa được khám phá, nhưng sự phát triển của những xu hướng về đồng tính thường có nguồn gốc từ việc cá nhân được dạy dỗ.3 Trong nghiên cứu và trong công việc phục vụ của tôi, tôi thường xuyên chạm trán với ba vấn đề có liên quan đến sự bộc lộ đồng tính luyến ái.
Video về đồng tính luyến ái từ những người có xu hướng đồng tính:
Một: Lạm dụng tình dục. Nếu một người phụ nữ thời trẻ bị lạm dụng bởi bất kỳ người nam nào, trong tiềm thức cô ấy có thể nghĩ “Tất cả đàn ông đều giống như người này, và không người nào được phép làm như vậy với tôi! Tôi không muốn bị tổn thương giống như vậy một lần nữa.” Thỉnh thoảng đồng tính luyến ái trở thành một tấm chắn bảo vệ cho trái tim và cách trú ẩn để trốn thoát tổn thương của những quan hệ lạm dụng. Điều ấy có thể hiểu được là khi một người đã bị tổn thương trong quá khứ sẽ muốn tránh những mối quan hệ tương lai mà nó có thể gây ra nỗi đau – và đau thương là tất cả những gì người ấy cảm nhận từ người khác giới. Cũng vậy, một đứa trẻ bị lạm dụng tình dục bởi một đối tượng đồng giới có thể từ chối khuynh hướng tình dục của mình.
Hai: Đôi khi bố/mẹ khác giới thì quá vướng víu, dây dưa trong cuộc đời đứa trẻ. Ví dụ, một người mẹ và con trai có thể dựa dẫm vào nhau cách thái quá ngay cả cho những nhu cầu mà cần phải được giải đáp từ nguồn khác. Điều này có thể góp phần cho sự nhầm lẫn nhận dạng giới tính ở trẻ.
Ba: Đứa trẻ có thể đã thiếu vắng cảm xúc hoặc thể lý của bố/mẹ. Bố/mẹ cùng giới có thể đã thiếu vắng cảm xúc hoặc thể lý. Trong trường hợp một người trẻ, sự vắng mặt của bố có thể dẫn đến cảm giác về sự thấp kém hoặc bị bỏ rơi so với bạn đồng tuổi khi nó đến với những nỗ lực thể thao với các chàng trai khác. Hoặc một người cha có thể đối xử quá tiêu cực với con trai mình và không bao giờ bận tâm để xác nhận hay khuyến khích nam tính của người trai trẻ. Điều này có thể làm cho người trai trẻ cảm giác bất lực để giao tiếp với những người cùng giới tính anh ta. Điều phổ biến là vào tuổi trưởng thành của người trai trẻ sẽ tìm để xác nhận những gì là thuộc về nam giới. Đôi khi mong muốn được xác định với một chàng trai nam tính rõ ràng có thể bị bị hiểu nhầm là sự bắt đầu một mối quan hệ đồng tính.
Nếu một người trai trẻ hành động dựa trên sự hiều biết này để thăm dò về đồng tính, anh ta có thể dần dần tin tưởng rằng khuynh hướng giới tính của anh là về người đồng tính. Nhưng sự lôi cuốn này có thể đơn giản chỉ bởi chàng trai khác có tính nam giới ở mức độ người trai trẻ kia ngưỡng mộ và sợ rằng anh ta thiếu tính nam giới đó.
Sự ngưỡng mộ này của một người cùng giới thì không hiếm trong suốt thời thanh niên, cho nữ giới cũng như nam giới. Trong thời gian này, giới trẻ đang tìm để khám phá ra nhân dạng của chính họ. Họ thường đi qua một tiến trình thành nhân dẫn họ từ lôi cuốn bởi tình bạn với người cùng giới đến quan hệ tình bạn trọng yếu là ở nơi người khác giới. Nó không là hiếm hoi cho thiếu niên bị rối loạn trong thời kỳ phát triển giới tính mau lẹ của họ, trong giai đoạn tìm kiếm nhân dạng, và sự trưởng thành của những lôi cuốn/ưa thích.
Cho lý do bàn luận, chúng ta hãy giả sử rằng có vài người sinh ra đã là người đồng tính. Phải điều đó có nghĩa rằng họ cần được tự do để thỏa mãn bằng những hành vi đồng tính luyến ái? Người đàn ông chưa có vợ có thể dễ dàng để nói rằng theo mặt di truyền, họ đã được tạo dựng để khao khát sex trước hôn nhân. Vài bằng chứng tồn tại để chứng mình rằng có người thiên về chứng nghiện rượu theo di truyền. Nhưng chỉ bởi vì một người có những ao ước ấy hoặc có khuynh hướng, không có nghĩa là hành động theo những ham muốn mạnh mẽ đó là đúng với luân lý và đạo đức.
Con người đã trải qua những thập kỷ tìm kiếm những đầu mối di truyền để hiểu hơn về định hướng tình dục. Trong chuyến tìm kiếm bằng chứng bằng kính hiển vi, họ bỏ lỡ điều hiển nhiên được tiết lộ trong thân xác. Thân thể của mỗi người đàn ông được tạo ra để dành cho một người đàn bà, và thân xác của mỗi người đàn bà lại được tạo ra để dành cho một người đàn ông. Nếu một người phụ nữ đồng tính từ lúc sinh ra thì tại sao cô ấy lại có tử cung? Tại sao khả năng của đàn ông là tái sản xuất con người lại phụ thuộc vào một người nữ?
Những câu hỏi như thế thật khó để đi đến quyết định cho những người không cảm thấy sức hấp dẫn đến từ người khác giới. Nhưng cơ thể của họ tiết lộ rằng ơn gọi của họ là để bản thân họ trở thành món quà. Họ được tạo nên theo hình ảnh tương tự Thiên Chúa, và chỉ yêu như Thiên Chúa yêu mới đưa họ đến sự hoàn thành và ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Bởi nhìn vào những hình mẫu của người không lập gia đình như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Mẹ Têrêsa, và Chúa Giêsu, một người với sự hấp dẫn đồng giới có thể thấy rằng đó là có thể khi từ bỏ sự vui thích trong cuộc sống này để kinh nghiệm Thiên Chúa cách thâm sâu ngay bây giờ và trong cuộc sống mai sau.
1. R. McKie, “The Myth of the Gay Gene,” The Press NZ, July 30, 1993, 9. As quoted by Neil and Briar Whitehead, My Genes Made Me Do It! (Lafayette, La.: Huntington House Publishers, 1999), 135.
2. W. Byne and B. Parsons, “Human Sexual Orientation: The Biological Theories Reappraised,” Archives of General Psychiatry 50 (1993), 228–239; “Gay Genes Revisited,” Scientific American, November 1995, 26.
3. E. Moberly, Homosexuality: A New Christian Ethic (Cambridge, U.K.: James Clarke, 1983); G. van den Aardweg, On the Origins and Treatment of Homosexuality: A Psychoanalytic Reinterpretation (Westport, Conn.: Praeger, 1986).
Bạn có lẽ cũng thích –
Leave a Reply