Chúng ta có thể tranh luận chống lại ngừa thai nhân tạo chỉ bằng lí luận triết học, mà không đả động gì tới đức tin hay Kinh Thánh. Nhưng công trình của ĐGH Gioan Phaolô II là nhằm thể hiện lí lẽ thần học ở mức sâu nhất đối với sự vô luân của ngừa thai nhân tạo. Đó chính là: triệt sinh sự kết hợp nên một thân thể làm sai lệch đi dấu chỉ bí tích của tình yêu vợ chồng. Nó xúc phạm tới điều mà ĐGH Gioan Phaolô II gọi là “nền luân lý của dấu chỉ”.
Là một bí tích, hôn nhân không chỉ thể hiện tình yêu và sự sống của Thiên Chúa, nhưng là còn tham dự vào chính tình yêu và sự sống của Người – hoặc, ít nhất, mục đích của nó là như vậy. Để cho bí tích có thể truyền ban ân sủng (tình yêu và sự sống của Thiên Chúa), thì dấu chỉ bí tích phải thể hiện cách chính xác mầu nhiệm tâm linh. Ví dụ, nước dùng cho bí tích thánh tẩy, như là chất thể cho việc tẩy rửa, thật sự thanh tẩy tâm hồn khỏi tội lỗi. Nhưng nếu bạn rửa tội cho ai đó bằng nước bùn hay bằng hắc ín, thì sự thanh tẩy tâm hồn sẽ không thể diễn ra, vì chất thể giờ đây quả là thứ dơ bẩn. Đó thực chất lại là một phản dấu chỉ của thực tại thiêng liêng của bí tích Thánh tẩy.
Mỗi một đời sống hôn nhân đều là một bí tích. Mỗi một đời sống hôn nhân là một dấu chỉ của tình yêu và sự sống của Thiên Chúa. Nhưng bí tích này có một sự biểu lộ tột bực. Việc giao hợp là ngôn ngữ ký hiệu của toàn thể thân xác chỉ về tình yêu Thiên Chúa. Ở đây, không giống như bất cứ khoảnh khắc nào khác trong đời hôn nhân, hai vợ chồng được mời gọi để tham gia vào “mầu nhiệm cao cả” của Thiên Chúa – là tình yêu sáng tạo và cứu chuộc. Nhưng điều đó sẽ diễn ra chỉ khi nào sự kết hợp tính dục của đôi vợ chồng biểu lộ cách chính xác tình yêu Thiên Chúa. Vì thế, ĐGH Gioan Phaolô II kết luận rằng: “Người ta có thể nói điều gì là tốt hay xấu về luân lí là do mối tương quan này có thể hiện thật sự ‘sư hợp nhất trong thân xác’ hay không, có thể hiện nơi hành động đó đặc tính của một dấu chỉ đích thực hay không” (TOB 37, 6; ngày 27 tháng 8 năm 1980).
Như thần học về thân xác của ĐGH Gioan Phaolô II đã soi chiếu cách tuyệt vời, Thiên Chúa đã viết nên một thứ ngôn ngữ trên thân xác con người. Ngôn ngữ đó là về mầu nhiệm của sự khác biệt phái tính: nó được dùng để loan báo sự thật về tình yêu thần linh và cho phép người nam cũng như người nữ được tham dự vào tình yêu ấy. Nhưng cũng như bao ngôn ngữ khác, ngôn ngữ nơi thân xác con người có thể nói ra sự thật, và cũng có thể nói lời dối trá.
Điều cốt yếu để hôn nhân là “dấu chỉ đích thực” – một bí tích đích thực – là “ngôn ngữ của thân xác phản chiếu chân lí”. Đây chính là cách mà đôi vợ chồng “thiết lập” nên dấu chỉ bí tích hôn phối (TOB 104, 9; ngày 12 tháng 1 năm 1983). Bằng việc tham dự vào kế hoạch tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa, ĐGH Gioan Phaolô II thậm chí còn cho rằng “’ngôn ngữ của thân xác’ gần như thật sự trở thành “lời tiên tri của thân xác”. Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn trọng để phân biệt lời tiên tri thật và lời tiên tri giả. Như ĐGH Gioan Phaolô II đã nói, giáo huấn của thông điệp “Sự sống con người / Humanae Vitae” chỉ đơn thuần mang chân lý tỏ tường này đưa đến kết luận hợp lôgic (xem TOB 123:2;ngày 22 tháng 8 năm 1984).
Và khi con người chèn sự ngừa thai nhân tạo vào bên trong ngôn ngữ thân xác, thì dù cố ý hay vô ý, họ đã tham dự vào “phản dấu chỉ” của “mầu nhiệm cao cả”. Thay vì công bố “Thiên Chúa là tình yêu trao ban sự sống”, ngôn ngữ của sự giao hợp thân xác trong sự ngừa thai nhân tạo lại nói rằng “Thiên Chúa không phải là tình yêu trao ban sự sống”. Bằng cách này, thì các cặp vợ chồng, dù cố ý hay vô ý, đã trở thành các “tiên tri giả”. Họ đã báng bổ phạm thượng. Thân xác họ vẫn đang loan báo một thứ thần học, nhưng đó là thần học làm sai lệch tình yêu Thiên Chúa.
Leave a Reply