Bài này được chuyển ngữ từ Reorienting sexuality
Nếu bạn đã đi qua giáo dục giới tính trong thời hiện đại, theo dõi tranh luận hôn nhân đồng tính trên truyền hình, hay đơn giản chỉ hấp thụ các lý thuyết về tình dục của văn hóa này, bạn có lẽ quen thuộc với ý tưởng về xu hướng tình dục. Đây là một lý thuyết nói rằng mỗi người có một thu hút tình dục bẩm sinh, đã cố định hoặc là với người khác giới, hoặc là với người đồng giới, hoặc cả hai giới.
Đây là sự hiểu biết của Tây phương về đồng tính luyến ái đã được phát triển trong khoảng vài trăm năm trước. Nó được đặt ra vào khoảng Cuộc Cách mạng Pháp, và ngày càng được ủng hộ nhờ sự tăng trưởng của các ngành khoa học tâm lý trong thế kỷ XX. Vào khoảng 100 năm nay, điểm bất đồng cơ bản tập trung chung quanh câu hỏi có phải thu hút/hấp dẫn đồng tính là một đặc điểm sinh học (sinh ra với gen đồng tính), hay là một rối loạn tâm lý. Hiện tại, hầu hết những biện luận của các nhóm ủng hộ quyền của đồng tính chấp nhận rằng nó là một đặc điểm sinh học (dù điều này không có nghĩa là trong cộng đồng người đồng tính ai cũng đón nhận giả định này) trong khi hầu hết các cơ quan bảo thủ thừa nhận nó là một rối loạn tâm lý.
Điều còn lại chưa được xem xét trước hết là việc cho rằng đây là cách để mường tượng về tính dục của con người cách chính xác. Có một số nghiên cứu bởi những học giả nữ quyền và đồng tính luyến ái nữ cho rằng, ít nhất, tính dục nữ thì có tính động hơn là “sinh học” nhận định. Từ “LUG” và “hasbian” (Lesbian until graduation/ Nữ trong trung học hoặc đại học tạm thời thử nghiệm với đời sống đồng tính cho đến khi tốt nghiệp, sau đó họ có thể mang nhân dạng của người được thu hút bởi người khác giới) cả hai khái niệm trên đưa ra sự kiện tiêu biểu là một số người nữ cảm nghiệm sự thu hút đồng tính tại một thời điểm trong đời của họ và rồi di chuyển vào nhân dạng của người được thu hút bởi người khác giới mà không gặp biến động tâm lý nào. Những người nữ khác có thể dễ dàng đón nhân bản sắc và lối sống tình dục khác giới nhiều năm nhưng lại có những thu hút tình dục với người đồng giới xuất hiện sau đó.
“Tôi đã chắc chắn tôi là người nữ đồng tính”
Tôi thuộc vào trường hợp của những người trong nhóm thứ nhất: trong buổi ban đầu của đời tôi, tôi đã chắc chắn rằng tôi là người nữ đồng tính. Tôi bí mật có quan hệ đồng giới trong nhiều năm, và những cố gắng của tôi để có bạn trai chỉ đem lại những kết quả từ sầu thảm đến thảm họa. Tôi cảm thấy việc gần gũi thể lý với người nam ít nhất là khó chịu. Khi tôi trở thành người Công Giáo, tôi vẫn tin rằng đồng tính luyến ái là điều bất di bất dịch và tôi không tin vào việc “cầu nguyện để sự đồng tính không còn nữa.” Vì thế, thực sự là một điều ngạc nhiên khi tôi thấy mình bắt đầu yêu, và bị thu hút thể lý với một người nam.
Lưỡng tính không thể giải nghĩa sự thay đổi này. Tôi đã không có cảm nghiệm bị thu hút bởi cả hai giới đồng đều trong một thời gian liên tục. Đã có một sự đổi hướng xoay chiều đáng kể, có thể nhận ra và dứt khoát đối với chính những thu hút [của tôi]. Giờ đây, tôi cảm thấy việc dính dáng về tình dục với một người nữ thật khó chịu và trong lãnh vực tình dục không hấp dẫn như tôi đã tìm thấy trong việc gần gũi với người nam.
Có một số ghi nhận về việc loại này trong các tài liệu khoa học, nhưng dường như chưa bao giờ được bàn luận công cộng. Khẳng định được coi như không sai lầm rằng nếu bạn đã là đồng tính luyến ái một lần, bạn sẽ luôn là người đồng tình luyến ái thì che khuất đi những kinh nghiệm thực tế của những người nữ đã trải qua sự thay đổi về hấp dẫn tình dục của họ.
Mặc dù kinh nghiệm này phổ biến hơn ở phụ nữ, có bằng chứng cho thấy một số người nam có kinh nghiệm tương tự. David Morrison, trong cuốn sách Beyond Gay/Bên Kia của đồng tính, mô tả sự thay đổi về những thu hút của ông sau một cuộc cải hóa tâm linh thiêng liêng. Những nhà văn khác, thường là những Kitô hữu theo các nhóm Tin Lành, đã tường thuật kinh nghiệm tương tự. Ở phía bên kia của kinh nghiệm này, có những người như Jack Malebranche, cuốn sách của ông Androphilia/Thu hút bởi nam giới mô tả sự đồng tính của ông với những từ về ưa thích và lựa chọn. Đó là một điều gì đó ông ta đã thử nghiệm vì ông ta là “một đứa trẻ muốn thử mọi thứ mà mọi người khác sợ hãi,” và nhận ra rằng ông ta thích nó.
Ân sủng của Thiên Chúa và liệu pháp sốc điện
Vấn đề chủ yếu với ý tưởng tình dục đồng giới bẩm sinh là nó che khuất đi sự hợp nhất của tính dục vào một nhân dạng con người trọn vẹn. Những người đặt đồng tính luyến ái làm trọng tâm của nhân dạng thì lựa chọn điều ấy chứkhông bị bắt buộc: họ chọn để ưu tiên tình dục trên những khía cạnh khác của bản thân, và xây dựng nhân dạng trên nền tảng đó. Những người khác có thể đặt những quan tâm khác – hệ tư tưởng, tôn giáo, văn hóa, gia đình—là nền tảng quan trọng hơn.
Không may, các mô hình hiện tại của đồng tính luyến ái khước từ sự chính đáng của những lựa chọn này. Văn học về đề tài này thường tự cho rằng nếu một người cảm nghiệm ao ước đồng tính, thì rất tổn hại nếu họ không theo đuổi ao ước đó. Những chọn lựa khác phải được điều chỉnh hoặc gạt sang một bên để phát triển nhân dạng đồng tính.
Hầu hết các tài liệu ủng hộ khuynh hướng này biện minh cho điều này bằng cách nêu ra những “chữa trị” đã chứng minh rằng việc thay đổi xu hướng không có hiệu quả và gây nên tổn thương. Thế kỷ XX đã tạo nên những phương cách thực sự rùng rợn để chuyển hướng hấp lực đồng tính: cấy ghép tinh hoàn, liệu pháp sốc điện, những thí nghiệm tẩy não theo lối Clockwork Orange (dùng tra tấn để liên hệ đau đớn với điều muốn tránh), và những hình thức sỉ nhục tâm lý đều đã được thí nghiệm với những kết quả tồi tệ như có thể đoán biết được.
Từ đó phát sinh giả định rằng bất cứ ai thay đổi tính dục của mình thì đã làm điều gì đó cũng tương tự như biến dạng và quái dị. Tôi đã bị nhét vào loại này khi tôi được miêu tả trong một bộ phim truyền hình; nhân vật được dựa đại khái trên chính tôi, trong phim một người nữ trải qua điều trị sốc điện và đã kết hôn với người nam có dáng vẻ giống như phụ nữ hơn là cô ấy. Trong thực tế, tôi không ghé thăm nhà trị liệu, hay các nhóm người đã là đồng tính trong quá khứ tự giúp đỡ lẫn nhau, hay với nhóm huấn luyện cho những người muốn rời bỏ lối sống đồng tính, và tôi cưới một người đàn ông giống hình mẫu một gia trưởng Cựu Ước trong icon (bức tranh cổ) của Giáo Hội Đông phương.
Với tôi, cũng như với nhiều người khác, những điều khác thì quan trọng hơn tình dục. Phần nhân dạng dựa trên tư tưởng và tâm lý của tôi đã luôn là phần cơ bản nhất của bản thân; khi hệ tư tưởng của tôi thay đổi, tình dục của tôi cũng tương tự thay đổi cách rất tự nhiên, không cần sự can thiệp kỳ quặc hay tổn hại từ bên ngoài.
Rõ ràng đây không phải là trường hợp của tất cả mọi người, nhưng đó là một trường hợp khá phổ biến để thực sự thách thức ý tưởng về một khuynh hướng tình dục cố định.
Thay đổi những thu hút
Khuynh hướng tình dục không thể được giảm xuống mức độ hoặc sinh học hoặc tâm lý bởi vì thu hút tình dục không đơn giản như vậy. Thu hút là một vấn đề phức tạp. Con người bị hấp dẫn bởi những người cùng chia sẻ cảm giác thẩm mỹ, với những người cùng chia sẻ niềm tin và hệ tư tưởng, với những người mang các cá tính của nhân vật lôi cuốn họ từ phim, sách vở, với những người mà họ có quan hệ cảm xúc gần gũi, và tương tự. Chúng ta không giống động vật có sự thu hút chỉ được dựa trên độ dài của mắt con đực ưu thế, hay màu của bộ lông.
Mọi người đã có cảm nghiệm bị hấp dẫn tình dục với người khác rồi sau đó lửa ái tình bị dập tắt khi biết rằng đối tượng của cảm xúc của họ có những thói quen ghê tởm hay tin vào những điều xúc phạm. Hầu hết mọi người cũng đã có kinh nghiệm về việc cảm thấy một người thoạt đầu không hấp dẫn về thể lý, và sau đó cảm thấy khác khi mối quan hệ tình cảm phát triển.
Một phần đó là kết quả của sự thay đổi cách tự nhiên nhưng nó cũng bị ảnh hưởng bởi sự lựa chọn của người ấy. Mối quan hệ tình cảm phát triển bởi sự lựa chọn để trải thời gian với người ấy. Vị trí của tư tưởng là một sự hợp tác giữa trí tuệ là ý chí. Thẩm mỹ có thể thay đổi khi chủ tâm tìm kiếm hay tránh bỏ một số những vẻ đẹp. Cá tính con người không cố định, nhưng có thể uốn nắn. Việc thay đổi cách triệt để không thể được thực hiện ngay lập tức, nhưng sự quyết chí thì mạnh hơn rất nhiều so với những biện luận cho rằng sinh học là luật quyết định.
Điều này đúng trong lãnh vực tầng lớp con người và cũng đúng đối với cá nhân. Một người nam ban đầu rất cự tuyệt những người khác chủng tộc có thể tự dạy mình cách để nhìn thấy vẻ đẹp nơi những người không giống với mình. Một người phụ nữ cảm thấy người nam đáng sợ hay khó chịu có thể tăng sự hiểu biết về người nam và sự tôn trọng về nam tính. Những thay đổi này không chỉ có thể mà rất thường xảy ra—và nó có thể xảy đến với những người cảm thấy rằng họ không có khả năng để quan hệ tình dục với người nam hoặc với người nữ.
Đó là lý do tại sao tôi không tin rằng khuynh hướng tình dục là điều gì cố định nơi cá tính con người. Cá tính loài người quá phong phú, quá đa dạng, không thể nào đoán trước được và quá khác nhau để một khái niệm đơn giản như thế có thể bao gồm tất cả hay giải thích về nó.
Melinda Selmys là tác giả của cuốn sách Sexual Authenticity: An Intimate Reflection on Homosexuality and Catholicism. Melinda thường viết bài bình luận cho National Catholic Register, và là chủ biên tập chuyên trang tiều thuyết cho www.vulgatamagazine.org
Leave a Reply