Những kết quả của một nghiên cứu về nguồn gốc đồng tính bởi gen tuần qua trong tạp chí Science làm nổ tung lối giải nghĩa sai lầm rằng đồng tính luyến ái là tình trạng bẩm sinh do gen điều khiển hoặc phần lớn là chịu ảnh hưởng di truyền của gen.
Bác bỏ việc nhiều thập ký tìm kiếm “gen gay” của các nhà khoa học của nhóm LGBT, tác giả thứ nhất của nhiên cứu thẳng thắn kết luận, “Cách cơ bản, người ta không thể nào dự đoán được những hành vi tình dục của một người hoặc xu hướng [tính dục] chỉ từ gen.”
Nói cách đó còn là nhẹ nhàng.
Nghiên cứu cho thấy là môi trường phát triển của một người – ảnh hưởng của chế độ ăn uống, gia đình, bạn bè, làng xóm, tôn giáo và mọi điều kiện sống khác – thì có ảnh hưởng gấp đôi so với di truyền về việc đón nhận những hành vi đồng tính hoặc là xu hướng đồng tính. Ảnh hưởng di truyền không đến từ một hoặc hai nguồn mạnh lực nhưng là từ hàng chục biến thể di truyền và mỗi biến thể góp một phần nhỏ vào hành vi đồng tính.
Sự sắp xếp di truyền đến từ một số lượng lớn các dấu hiệu trong bộ gen nghĩa là hầu hết mọi người cũng có cùng sự sắp xếp này, hoặc là một phần lớn của những sắp xếp này. Nói cách khác, nghiên cứu không chỉ không thể tìm thấy một số gen điều khiển nhận dạng đồng tính, nghiên cứu còn xác định rằng những người đồng tính thì không khác biệt với những người khác theo cách rõ ràng nào.
Chúng ta có thể nói, người đồng tính, có bộ gen hoàn toàn là bình thường.
Những người ủng hộ việc cho rằng LGBT là việc bình thường (sinh ra như vậy), bao gồm tạp chí và những phóng viên truyền thông xã hội chính thống, đã cố gắng nhún nhường về kết quả này. Như thể kết quả là về việc hãy chấp nhận những chọn lựa lối sống của người đồng tính, tạp chí New York Times trích dẫn một trong những nhà nghiên cứu nói, “Tôi hy vọng là khoa học có thể được dùng để giáo dục quần chúng thêm một chút về hành vi đồng tính là việc tự nhiên và bình thường thế nào.” Những người hoạt động cho LGBT tuyên bố rằng nghiên cứu, “cung cấp thêm nhiều bằng chứng hơn nữa là gay hoặc lesbian (đồng tính nam hay nữ) là phần tự nhiên của đời sống con người.
Thật vậy, nghiên cứu cho thấy xu hướng di truyền của hành vi đồng tính thì không khác biệt gì nhiều so với 28 những đặc điểm phức tạp hoặc hành vi khác và nó liên quan đến xu hướng để có những hành vi mạo hiểm khác như, hút thuốc lá, sử dụng ma túy, có nhiều bạn tình dục hoặc một việc cởi mở sẵn sang cho những trải nghiệm mới nói chung.
Nhưng tuyên bố nhất quyết và từ lâu của những người hoạt động đồng tính về mặt luật pháp và chính sách cộng động đã không bao giờ là: những hành vi đồng tính phản ánh những yếu tố giáo dục hoặc lối sống, mà là một khác biệt bẩm sinh được nhận ra, không là một phát triển; một yếu tố riêng biệt và cố định của bản chất con người mà không thể thay đổi được.
Về mặt cảm xúc và tình dục, xu hướng đồng tính không là việc người ấy chọn để trở thành, họ đã tuyên bố, nhưng là con người họ đã là.
Chẳng hạn, một chứng minh căn bản cho quyết định của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong việc cho phép hôn nhân đồng giới là, định hướng đồng giới phản ánh một “bản chất bất biến chỉ ra rằng hôn nhân đồng giới là con đường trung thực duy nhất cho cam kết sâu sắc này của họ. ” (Obergefell v. Hodges ruling, p. 4).
Và điểm xung đột về sự chấp nhận [hôn nhân đồng tính] ngày nay, không quá là về những người muốn xác định chọ là đồng tính, mà là cho những người muốn tránh hoặc chống cự nhận dạng đó cho cá nhân họ.
Với lý do là họ phải từ chối bản chất bất biến của mình, nhiều nỗ lực lập pháp và tư pháp hiện đang được tiến hành để cấm hoặc khước từ các liệu pháp tự nguyện, giúp những người đã trưởng thành và có cảm nghiệm bị thu hút bởi người đồng tính ở mức độ nào đó, nhưng lại không muốn có những quan hệ đồng tính hoặc xác định họ là đồng tính.
Trong chính lĩnh vực pháp lý khi mà người có xu hướng đồng tính nay được tự do để xác định mình là đồng tính và có quyền kết hôn, các hệ tư tưởng LGBT cũng đang hoạt động để từ chối những người ấy sự tự do để khước từ việc xác định bản thân là đồng tính hoặc có quyền cưới người khác giới, với lý do là họ vì thế đang làm việc bạo lực với con người họ thực là.
Nghiên cứu này đã cho thấy lối suy nghĩ của họ là vô căn cớ.
Nếu người đồng tính nam và nữ thì bình thường về mặt di truyền, thì có cơ sở nào để coi họ là một nhóm được bảo vệ riêng biệt, được đối xử ưu đãi theo luật, hoặc cấm những người có di truyền bình thường khác khước từ tham gia vào những hành vi đồng tính?
Nghiên cứu cho thấy hầu hết những người đồng tính có kiểu gen giống hệt nhau (theo tỷ lệ xấp xỉ 2 đến 1), vì những lý do môi trường xã hội hoặc sự phát triển hoặc nguyên tắc cá nhân, không tham gia vào các mối quan hệ đồng tính. Chẳng lẽ những người đó không có quyền tự do và quyền hợp pháp để sống như vậy?
Trong một xã hội tự do coi trọng quyền tự chủ cá nhân chức năng thích hợp của pháp luật không là để xử phạt các lựa chọn lối sống cá nhân, dù là một số người có thể không đồng ý cách kích liệt với họ hoặc không cùng một lối suy nghĩ chính trị như họ.
Vì những ngụ ý trên, một số nhà khoa học trong nghiên cứu, bản thân họ là người đồng tính, đã công khai phản đối việc xuất bản nghiên cứu này. Dù không ý thức được sự quá thiên vị của họ, họ bày tỏ lo ngại rằng các kết quả nghiên cứu sẽ bị “hiểu sai” để “những kế hoạch thù hắn sẽ thăng tiến.”
Trong ngôn ngữ nhẹ nhàng hơn, họ lo ngại rằng nó có thể được diễn giải theo những cách mà họ không đồng ý. Đối với họ, lợi ích của việc tăng cường hiểu biết về hành vi của con người trong lĩnh vực này không vượt quá ảnh hưởng chính trị tiêu cực đối với nhận dạng đồng tính mà nghiên cứu đem đến.
Các tác giả chính của nghiên cứu, một số cũng là người đồng tính, cần được khen ngợi vì đã dám kháng cứ những thúc đẩy để che dấu bằng chứng khoa học vì lợi ích chính trị. Mặc dù thường bị vi phạm ngày nay, niềm tin rằng việc phổ biến bằng chứng và ý tưởng không nên bị kiểm duyệt bởi những cân nhắc chính trị là nền tảng cho khoa học hiện đại.
Trong khi chúng ta có thể tranh chấp, hy vọng là với sự tôn trọng lẫn nhau, ai là người đang bày tỏ sự thù ghét ai trong việc diễn giải những kết quả này, phương thức tốt nhất của chúng ta trên cơ sở chính sách và pháp luật là dựa trên những bằng chứng khách quan vững chắc, được trình bày một cách trung thực, như nghiên cứu này minh họa.
Hoặc như một người khôn ngoan đã từng nói: “Bạn sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng bạn.”
Rev. D. Paul Sullins recently retired as Professor of Sociology at the Catholic University of America, Washington DC. He is a Senior Research Associate of the Ruth Institute. Dr. Sullins is a leader in the field of research on same-sex parenting and its implications for child development. He has written four books and over 100 journal articles, research reports, and essays on issues of family, faith, and culture.
Chuyển ngữ từ The gay gene myth has been exploded
Leave a Reply