Lời giới thiệu về Điều hoà sinh sản theo phương pháp tự nhiên
Điều hoà sinh sản theo phương pháp tự nhiên (ĐHSSTN /Natural Family Planning) không đồng nghĩa với các phương cách chống lại việc thu thai (contra-ception). ĐHSSTN giúp cặp vợ chồng đặt khoảng cách trong việc sinh con cái và giới hạn số đứa con trong gia đình. Nhưng nó không cung cấp cho cặp vợ chồng sự kiểm soát hoàn toàn về việc sinh sản. Ngay cả khi cặp vợ chồng quyết định để giới hạn số con cái của gia đình họ trong tinh thần cầu nguyện, hoặc chờ đời một thời gian trước khi có con lần nữa, ĐHSSTN vẫn sẵn sàng với sự sống mới có thể đến với họ và với thánh ý của Chúa. ĐHSSTN được dùng cách thích hợp với luân lý và đáng khen ngợi khi cặp vợ chồng dù có những quyết định với trách nhiệm về con số con cái, vẫn sẵn sàng để chấp nhận một đứa con họ không dự định từ sự Quan Phòng của Thiên Chúa.
ĐHSSTN vì một lý do đích đáng
Trong hầu hết các trường hợp, cặp vợ chồng sẽ dùng ĐHSSTN chỉ để giới hạn số con cái và để có khoảng cách giữa những lần sinh con. Họ phải có lý do đích đáng để làm điều này, chằng hạn vì khả năng/tài Nguyên giới hạn của gia đình và việc cần để cung cấp cho những đứa con họ hiện có. Hầu hết các cặp vợ chồng hôm nay đạt tiêu chuẩn này và có thể dùng ĐHSSTN để giới hạn số con cái và để có khoảng cách giữa những lần sinh con. Trong trường hợp này việc dùng ĐHSSTN chỉ để loại trừ khả năng thụ thai không là việc trái luân lý. Dùng ĐHSSTN để chống lại việc thụ thai là trái với luân lý. Những ý định của cặp vợ chồng phải là mở rộng đến với sự sống và thánh ý của Chúa liên quan đến việc sinh sản con cái.
ĐHSSTN vì một lý do nghiêm trọng
Nếu cặp vợ chồng có lý do nghiêm trọng, họ có thể dùng ĐHSSTN chỉ cho mục đích tránh thụ thai. Ít cặp vợ chồng có lý do nghiệm trọng như vậy. Lý do mà có thể bao gồm hiểm nguy đáng kể đến với sức khoẻ người mẹ, hoặc sự sống của người mẹ nếu bà mang thai, hoặc nguy hiểm tương tự đến với sức khoẻ hoặc sự sống của đứa bé. Mỗi việc mang thai mang theo với nó một vài nguy hiểm, vì thế lý do nghiêm trọng phải thực sự nguy hiểm nhiều hơn những hiểm nguy bình thường.
ĐHSSTN hoạt động thế nào
ĐHSSTN dùng sự tăng hoặc giảm tự nhiên trong khả năng thụ thai đã được ghi ấn trong chu kỳ kinh nguyệt của người nữ để làm tăng lên hoặc giảm xuống sự có thể xảy ra của việc thụ thai. Có vài phương pháp hữu hiệu hiện đại của ĐHSSTN. Mỗi phương pháp xác định thời điểm dễ thụ thai nhất trong chu kỳ của người nữ và đòi hỏi cặp vợ chồng kiêng cữ trong thời gian ấy nếu họ muốn tránh thụ thai
Phương pháp Billings dùng những quan sát về sự thay đổi nơi thân thể người nữ trong chu kỳ để xác định thời gian mà người ấy có khả năng thụ thai cao nhất.
Phương pháp Creighton là phương pháp cải biên của Phương Pháp Billings
Phương pháp Sympto-Thermal dựa trên những quan sát cũng như những thay đổi nhiệt độ thân thể. Phương pháp này hữu hiệu hơn và phức tạp hơn là những phương pháp chỉ là quan sát.
Phương pháp Standard Days là phương pháp mới của ĐHSSTN được phát triển bởi Institute for Reproductive Health của Georgetown University. Phương pháp này không sử dụng việc quan sát hoặc đo nhiệt độ. Đây là phương pháp lịch được cập nhật. Cặp vợ chồng kiêng cữ việc giao hợp ngày 8 đến ngày 19 của mỗi chu kỳ; chu kỳ bắt đầu với ngày đầu tiên của kinh nguyệt và chu kỳ phải nằm trong khoảng 26 đến 32 ngày.
Phương pháp Two-Day/Hai ngày cũng được phát triển ở GeorgeTown, dùng sự quan sát và luật hai ngày đơn giản. Phương pháp này dễ học hơn Phương pháp Billings hoặc Creighton nhưng ít hữu hiệu hơn.
Phương pháp Ecological Breast-Feeding or the Lactational Amenorrhea chỉ được dùng bởi các bà mẹ đang nuôi trẻ sơ sinh bằng bú sữa mẹ. Nó cho phép người mẹ trì hoãn việc rụng trứng bắt đầu lại và chu kỳ kinh nguyệt của họ nhiều tuần hoặc tháng sau một lần sinh sản. Đây là phương pháp duy nahát mà không cần sự kiêng cữ định kỳ.
Hiệu quả của ĐHSSTN
Sự hữu hiệu của bất cứ phương pháp ĐHSSTN nào khác biệt từ cặp vợ chồng này đến cặp vợ chồng khác.
Mọi phương pháp ĐHSSTN thì ít hữu hiệu đáng kể cho những cặp vợ chồng không tuân theo phương pháp cách chặt chẽ.
Mọi tỷ lệ hữu hiệu của ĐHSSTN là do cặp vợ chồng thực hành phương pháp cách chính xác và chặt chẽ. Những nghiên cứu khác nhau cho thấy mức độ hữu hiệu khác nhau; không có con số nhất định để trích dẫn. 95% hữu hiệu của một phương pháp nào đó có nghĩa là 5 của 100 người nữ thực hành phương pháp cách chính xác 1 năm sẽ có thai. Hiệu quả cá nhân thì khác cho từng người.
Phương pháp Sympto-Thermal: ~99% effective (reference)
Phương pháp Creighton: >98% effective (reference)
Phương pháp Billings: >97% effective (reference)
Phương pháp Two-Day: ~96% (reference)
Phương pháp Standard Days: ~95% (reference)
Phương pháp Ecological Breast-Feeding (LAM): ~94% effective (reference)
Chuyển ngữ từ An Introduction to Natural Family Planning
Leave a Reply