Phải chăng người ta chỉ cần dùng biện pháp ngừa thai?
Không ai là không đồng ý rằng quan hệ tình dục sẽ để lại hậu quả. Hậu quả này là tích cực trong hôn nhân, vì lúc ấy quan hệ tình dục giúp tạo nên mối dây liên kết tình cảm bền chặt. Và hậu quả này tiêu cực khi quan hệ tình dục xảy ra ngoài hôn nhân, lúc đó tình dục bị hạ thấp giá trị. Thông thường, khi người ta nói về những hậu quả của quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, họ thường đề cập đến việc có thai và các bệnh lây lan qua đường tình dục. Vì tình dục rất hấp dẫn và tạo lạc thú, nên không có gì ngạc nhiên khi người ta cứ đi tìm những phương thế để tận hưởng nó mà không phải gánh chịu những hậu quả thể lý tiêu cực nào.
Trong khoảng 40 hay 50 năm qua, những thay đổi trong các phương tiện ngừa thai, cố ý ngăn chặn thụ thai như hậu quả của quan hệ tình dục và những thay đổi trong hành vi tình dục dường như đi sánh đôi với nhau. Khi những phương tiện ngừa thai hiệu quả hơn càng phát triển thì người ta cảm thấy tự do dấn thân hơn trong quan hệ tình dục trước hôn nhân, và như thế càng tạo nên một thị trường các phương tiện ngừa thai lớn mạnh16. Cũng trong thời gian này, sự việc người Kitô hữu đồng lòng phản đối ngừa thai được thu gọn lại thành chỉ còn một tiếng nói, đó là tiếng nói của Giáo hội Công giáo17. Ngay cả trong Giáo Hội vẫn thường có những người chống đối giáo huấn này. Chương này sẽ là chương khó khăn đối với một số người, vì đi ngược lại với những gì nhiều người chấp nhận trong nền văn hóa hiện nay của chúng ta. Chương này sẽ xem xét tại sao Giáo Hội chống lại việc ngừa thai và việc ấy trái ngược với đức trong sạch đúng nghĩa như thế nào.
Huyền thoại “Tình dục an toàn”
Nhiều người vì muốn làm điều tốt nhất cho các bạn tuổi mới lớn nên thường đưa ra hai giả định không đúng. Giả định thứ nhất là con người, đặc biệt là tuổi mới lớn và giới trẻ, sẽ sớm quan hệ tình dục. Thứ hai, nếu tuổi mới lớn và những người trẻ quan hệ tình dục, thì ít ra họ cần phải phòng giữ cho “an toàn”. Những tuyên bố này nghe có vẻ hợp lý, thậm chí có vẻ đầy thương cảm và quan tâm, nhưng thật ra không phải vậy. Nói rằng một số bạn tuổi mới lớn có quan hệ tình dục là đúng. Cũng có thể là đúng với thực tế nếu nói một nửa các bạn tuổi mới lớn có quan hệ tình dục. Tuy nhiên, sẽ phi thực tế nếu nói rằng họ tất phải quan hệ tình dục, hầu như muốn nói rằng họ không thể nào tránh quan hệ tình dục được. Trái lại, hàng trăm ngàn bạn trẻ đã chọn sống trong sạch hay tiết chế và chờ đợi cho đến khi kết hôn mới quan hệ tình dục. Trái ngược với những lời đồn đãi, chẳng có ai chết vì không quan hệ tình dục cả.
Người ta có vẻ biết quan tâm đến tuổi mới lớn khi muốn bảo vệ các em không gặp phải những điều nguy hiểm. Người lớn thấy rằng bạn trẻ đang lao mình vào lối sống nguy hại và muốn cung cấp cho bạn trẻ ấy một số phương thế để tự bảo vệ mình khỏi nguy hại đó. Tuy nhiên, cách tiếp cận này làm nảy sinh hai vấn đề quan trọng, một vấn đề về triết lý và một vấn đề thực hành. Một cách triết lý có thể ví việc trao bao cao su cho một bạn tuổi mới lớn để bảo vệ bản thân khỏi bị hậu quả tiêu cực về thể xác do việc quan hệ tình dục giống như chúng ta mua cho một em bé 5 tuổi đôi găng tay chống cháy để bé có thể chơi với diêm quẹt cho an toàn. Thông thường, việc thực hành được nhiều người tán đồng là phải dạy cho trẻ năm tuổi không chơi với lửa. Phương cách hành xử hợp lý duy nhất trước mối nguy hại là tránh hành vi nguy hiểm hoặc chặn đứng hành vi đó nếu nó đã xảy ra, chứ không phải khuyến khích hành vi ấy đồng thời đưa ra phương thế bảo vệ.
Mẹ của Amy biết rằng đứa con tuổi mới lớn của bà đang có quan hệ tình dục và mặc dù bà muốn Amy dừng lại, nhưng bà không nghĩ rằng chỉ ngồi thảo luận vấn đề này mà có thể chấm dứt hành vi đó. Vì thế, mẹ của Amy quyết định cho cô uống thuốc ngừa thai. Bây giờ khi đã thành người lớn, Amy nghĩ rằng phương thế thuốc ngừa thai mà mẹ đã cho cô dùng vô hình chung làm cho cô mất cảm thức về tội lỗi và thực tế đã làm cho cô quan hệ tình dục bừa bãi hơn.
Trong thực tế, bao cao su không an toàn như người ta đã làm cho nhiều người tin như thế. Người ta thường quảng cáo rằng bao cao su là một phương thế bảo vệ để tránh mang thai ngoài ý muốn và các bệnh lây lan qua đường tình dục. Mặc dù bao cao su giúp tránh những hậu quả ấy hơn là không có gì cả, nhưng bao cao su hầu như không được đánh giá là biện pháp an toàn. Các con số về riêng bệnh lây qua đường tình dục thôi cũng đang thay đổi: Các nghiên cứu cho thấy gần hai phần ba các bệnh lây qua đường tình dục xảy ra cho các bạn trẻ dưới 25 tuổi, và một phần tư các ca mới nhiễm bệnh là các bạn tuổi mới lớn18. Tỉ lệ dùng bao cao su bị thất bại thường xuyên được tường trình là 5 phần trăm đến 15 phần trăm, và tỉ lệ thất bại đó thường là do bao cao su chỉ có thể ngăn chặn việc có thai trong thời gian một năm19. Trong khi việc thụ thai chỉ có thể xảy ra trong một thời gian ngắn mỗi tháng, bệnh lây qua qua đường tình dục có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng phụ nữ uống thuốc ngừa thai có nguy cơ ung thư vú ngày càng gia tăng20. Vì bệnh lây qua đường tình dục có thể dẫn đến vô sinh, ung thư và thậm chí nguy hiểm đến tính mạng, mà bao cao su thì chỉ bảo vệ được phần nhỏ thôi, nên việc sử dụng bao cao su không thể gọi là “an toàn” được.
Sống trong sạch và việc ngừa thai
Đối với những người muốn sống trong sạch, việc ngừa thai không phải là chọn lựa của họ. Điều này có ý nghĩa trước khi kết hôn, vì dùng biện pháp ngừa thai có nghĩa là quan hệ tình dục trước hôn nhân, tức là trái ngược với việc sống trong sạch. Nhưng việc sử dụng biện pháp ngừa thai trong hôn nhân là điều cấm đoán khó hiểu hơn, nhất là khi có nhiều cặp vợ chồng chọn sử dụng các phương thế để không mang thai. Có bốn lý do chính khiến việc ngừa thai và việc sống trong sạch hoàn toàn trái ngược nhau.
Trước hết, việc ngừa thai xâm phạm đến mục đích sinh sản của tình dục. Mối quan hệ nhân quả tự nhiên giữa quan hệ tình dục và việc thụ thai là điều có sẵn. Mục đích sinh học rõ ràng của hành vi này là có con, cũng như kết quả mong muốn của việc tập thể dục là có cơ thể khỏe mạnh. Việc sinh con không phải là mục đích duy nhất của tình dục, nhưng đó là kết quả tự nhiên. Người ta thường muốn quan hệ tình dục mà lại không muốn có kết quả tự nhiên của tình dục. Mong muốn này cũng giống như muốn được sưởi ấm từ lò củi cháy bừng mà lại không muốn bỏ tiền ra mua củi, hoặc không muốn chịu khó bỏ củi vào lò và lau chùi lò sưởi cho sạch. Một ít người thấy rằng có thể chấp nhận việc tách rời chiều kích trao ban tình yêu (chẳng hạn người chồng ép vợ chiều mình) cũng giống như việc ngừa thai tách rời chiều kích trao ban sự sống. Đức trong sạch đòi phải tôn trọng tính dục toàn vẹn của chúng ta, mà ngừa thai thì xâm phạm một phần của tính dục, đó là sinh sản con cái.
Thứ hai, ngừa thai không thể kết hợp hai vợ chồng cách trọn vẹn. Mục đích thứ hai của tình dục là kết hợp hai người nên một. Tình dục là sứ mạng nối kết đôi vợ chồng để họ hiệp nhất nhất với nhau trọn hảo. Trong hành vi tính dục, việc sử dụng biện pháp ngừa thai làm tổn thương tính hiệp nhất vì cả người chồng và người vợ đều không được kết hợp hoàn toàn với người bạn đời của mình. Món quà tặng là chính bản thân mình, trở nên món quà không trọn vẹn vì đôi vợ chồng đã giữ lại món quà sự phong nhiêu, không trao cho nhau. Hành vi tình dục của cặp vợ chồng dùng biện pháp ngừa thai nói lên thế này: “Anh (em) trao hiến cho em (anh), nhưng không trọn vẹn. Anh (em) giữ lại kho tàng phong nhiêu cho riêng mình”.
Thứ ba, tình dục trong hôn nhân mang ý nghĩa làm mới lại lời thề hứa hôn nhân, đem chúng ta trở về với ơn sủng của Bí tích Hôn phối. Một phần của nghi thức hôn nhân trong Giáo hội Công giáo là câu trả lời “Thưa có” khi vị linh mục hỏi “Các con có sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa sẽ ban không?”. Tình dục có sử dụng biện pháp ngừa thai từ chối lời thề hứa ấy. Là một ơn gọi, hôn nhân mang ý nghĩa trao ban sự sống, cả đối với vợ chồng và đối với những người khác nữa. Thay vì đoan hứa được cam kết lại để giữ lời thề ước hôn nhân, đôi vợ chồng sử dụng biện pháp ngừa thai lại từ chối các lời thề hứa ấy. Đa số chúng ta không nghĩ đến việc vi phạm lời thề hứa trung thành trong hôn nhân. Tuy nhiên, tất cả mọi yếu tố trong lời thề hứa ấy có tầm quan trọng ngang nhau.
Thứ tư, Thiên Chúa ban cho con người khả năng tuyệt vời được cộng tác vào việc sáng tạo nên sự sống mới. Việc ngừa thai loại Thiên Chúa ra khỏi hành vi đồng sáng tạo. Thay vì đôi bạn mở ra cho mình cơ hội được Thiên Chúa chúc phúc lành khi có một em bé, thì đôi bạn đóng kín lại. Đây là một quyết định thuộc về tâm linh hơn về thể lý. Thiên Chúa mời gọi chúng ta tin tưởng vào Ngài, mở ngỏ cho kế hoạch của Ngài trên đời sống và gia đình của chúng ta. Quyết định ngừa thai là quyết định không đặt tin tưởng trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Có nhiều cặp vợ chồng sử dụng biện pháp ngừa thai đã chứng minh không có tác dụng phụ nào nguy hại. Tuy nhiên, thiệt hại do biện pháp ngừa thai gây ra rất khó nhận biết khi nó đang diễn ra. Một ví von dễ hiểu là so sánh với chuyện con ếch, một con vật có máu lạnh. Bỏ một con ếch vào nồi nước sôi, nó sẽ nhảy ra ngay vì nó biết nước sôi nguy hiểm cho nó. Nhưng nếu bỏ con ếch vào nồi nước hơi ấm, nó sẽ nằm im đó. Nếu nồi nước ấm đó đang đặt trên bếp lò và nhiệt độ tăng dần đến khi sôi lên thì con ếch không biết có nguy hiểm nên vẫn nằm đó cho đến khi hơi nước cuộn lên quanh mũi nó. Khi cơn nguy hiểm đến từ từ, chúng ta có thể không nhận biết ngay cả khi nó đang xảy ra. Việc sử dụng các biện pháp ngừa thai dần dần phá vỡ sự hiệp nhất giữa hai vợ chồng và phá vỡ mối tương quan giữa họ với Thiên Chúa.
Giáo hội Công giáo và việc kế hoạch hóa gia đình tự nhiên
Các biện pháp ngừa thai thì không giống với việc kế hoạch hóa gia đình tự nhiên. Có một sự khác biệt chính yếu. Việc sinh con theo kế hoạch là quá trình giãn việc sinh con ra và quyết định khi nào thì sinh thêm con. Thậm chí Giáo Hội còn dạy rằng các cặp vợ chồng có bổn phận luân lý phải quyết định số con và khoảng cách giữa hai đứa con, dĩ nhiên là với sự phân định trong cầu nguyện21. Tuy nhiên, việc sử dụng các biện pháp ngừa thai là phương tiện điều hòa sinh sản trái luân lý. Các cặp vợ chồng không muốn có thêm con thì tiết chế việc giao hợp khi nó có thể dẫn đến thụ thai. Một tiến bộ khoa học rất ý nghĩa trong nửa thế kỷ vừa qua giúp người phụ nữ nhận biết những dấu hiệu phát xuất từ cơ thể họ cho thấy thời gian có thể thụ thai. Hầu như người phụ nữ nào được chỉ dẫn một chút đều có thể biết khi nào mình có thể thụ thai và khi nào không22. Ba phương pháp tự nhiên xác định thời kỳ thụ thai của phụ nữ thường được gọi là NFP (Natural Family Planning, kế hoạch hóa gia đình tự nhiên).
Một số người tranh luận rằng đâu có khác biệt gì giữa NFP và và các biện pháp ngừa thai khác. Chẳng may, một số người sử dụng NFP lại có suy nghĩ dùng biện pháp ngừa thai, chẳng hạn họ nghĩ “Việc mang thai là một căn bệnh mà tôi cần phải tránh”. Não trạng này trái ngược với đức trong sạch, ngay cả khi phương tiện họ dùng thì không trái ngược. Trái với suy nghĩ của nhiều người, Giáo hội Công giáo không chống lại những biện pháp ngừa thai chỉ vì Giáo Hội nhận thấy việc ngừa thai có tính nhân tạo. Thật ra, Giáo Hội nhận thấy nhiều phương tiện nhân tạo khác như thuốc men và thực phẩm mà người ta chế tạo có thể giúp cơ thể phát triển và hoạt động tốt. NFP tránh thụ thai bằng cách không quan hệ tình dục vốn là chính việc dẫn đến thụ thai trong thời kỳ có khả năng sinh sản. Trái lại, những phương thế ngừa thai lại can thiệp vào chính bản chất hành vi giao hợp, hoặc là ngăn chặn hành vi, bằng cách ngăn không cho rụng trứng, hoặc giết chết tinh trùng. Với NFP, đôi vợ chồng chọn lựa kiêng giao hợp. Với biện pháp ngừa thai nhân tạo, họ tích cực tham gia thực hiện việc ngăn ngừa thụ thai. Xét về mặt triết lý, cả hai hoàn toàn khác nhau. Về luân lý, không đòi buộc vợ chồng giao hợp vào bất cứ ngày đặc biệt nào. Không hành động trong trường hợp đó không có lỗi về luân lý. Nói “không” khi người chồng hay người vợ của mình đau yếu thực tế được xem là hành động yêu thương. Mặt khác, Giáo lý của Hội thánh Công giáo dạy rằng các biện pháp ngừa thai tự bản chất là xấu23.
Tuy nhiên, bạn đừng bối rối. Điều này không có nghĩa là Giáo Hội cổ vũ việc giao hợp không thường xuyên trong hôn nhân. Giáo Hội khuyến khích các cặp vợ chồng mở ngỏ cho sự sống và chỉ tiết chế định kỳ khi cần thiết. Giáo Hội không nói: “Hãy thử dùng biện pháp kế hoạch hóa tự nhiên, nhưng nếu nó không thể giúp tránh thụ thai thì dùng đến các biện pháp ngừa thai nhân tạo”. Giáo Hội nói: “Nếu cần thiết thì hãy dùng biện pháp tiết chế khi bạn phải dùng đến”.
Tại sao NFP (Kế hoạch hóa gia đình tự nhiên)?
Vợ tôi và tôi đã cưới nhau và đã thực hành NFP trong vòng bốn năm. Chúng tôi tin chắc rằng nó đã đem lại lợi ích lớn lao cho cuộc hôn nhân của chúng tôi. Sau đây chỉ là một ít trong nhiều lý do tại sao chúng tôi đã chọn lựa phương pháp này. NFP giúp chúng tôi bảo đảm chắc chắn rằng chúng tôi luôn yêu thương nhau và trao hiến cho nhau trọn vẹn qua tình dục. Việc tiết dục định kỳ mà NFP đòi hỏi đối với những cặp vợ chồng muốn giãn thời gian sinh con, giúp giữ cho đời sống tình dục của chúng tôi luôn tươi mới và hấp dẫn. Vì chúng tôi buộc phải giữ tương quan vợ chồng theo những cách khác trong những quãng thời gian đó, nên khi có thể quan hệ tình dục thì chúng tôi nhận thấy mình sống toàn bộ mối tương quan vợ chồng sâu sắc hơn. Đôi khi nó giống như một tuần trăng mật mới nữa. Có nhiều lúc chúng tôi bất chợt quan hệ do cảm nhận được mối tương quan sâu sắc tuyệt vời. Tuy nhiên NFP không cho phép chúng tôi sử dụng nhau để đáp ứng đòi hỏi của mình. Đó chính là phương thế kiểm soát sinh sản tự nhiên đòi hỏi hai người có giao tiếp với nhau. Giao tiếp là yếu tố cốt yếu quan trọng của một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Chắc chắn con cái chúng ta sẽ được cưu mang trong yêu thương, và điều đó sẽ không bao giờ là một “tai nạn” hay một “lỗi lầm”, khi chúng ta mở ngỏ sẵn sàng cho sự sống xuất hiện mỗi lần chúng ta quan hệ với nhau.
Một trong những lý do tốt đẹp nhất, mà có lẽ cũng khó nhất, khi sử dụng kế hoạch hóa gia đình tự nhiên NFP là nó đòi chúng ta đặt niềm tin nơi Thiên Chúa. Nó có thể khó vì chúng ta không hoàn toàn kiểm soát được, nhưng Thiên Chúa đòi chúng ta tin rằng kế hoạch của Ngài luôn tốt đẹp. Nếu chúng ta tin rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta thì chúng ta cũng tin chắc rằng Ngài sẽ không làm điều gì hủy hoại cuộc sống chúng ta. Khi chúng ta để cho Thiên Chúa nắm quyền kiểm soát cho dù như thế, chúng ta vẫn có thể tin chắc rằng không gì Ngài ban mà lại quá sức chịu đựng của chúng ta với ơn của Ngài. Khi chọn sống trong sạch trước hôn nhân, chúng ta sẽ dễ dàng tin vào Thiên Chúa nhiều hơn và cũng dễ chọn NFP trong đời sống hôn nhân hơn.
Khi James và Joanne mới kết hôn, họ quyết định sử dụng thuốc ngừa thai. Trước hết, họ quyết định như thế vì uống thuốc có vẻ tiện cho họ, và nhiều người cũng đã làm như thế. Bạn của họ là Kevin và Angie thì chọn dùng bao cao su. Sau vài năm đầu đời hôn nhân, cả hai cặp vợ chồng đều bắt đầu cảm thấy không hài lòng với những phương thế mà họ đã chọn lựa để ngừa thai. Thế là họ tìm hiểu cách kiểm soát sinh sản tự nhiên NFP và quyết định thử dùng cách này. Kết quả là cả hai cặp vợ chồng đều cảm thấy thỏa mãn sâu xa trong mối quan hệ của họ, không còn chịu những hậu quả tiêu cực của biện pháp ngừa thai, và thấy tôn trọng khả năng sinh sản của mình hơn. Cả sau khi một cặp đã có hai đứa con và cặp có ba con, thì họ vẫn cương quyết từ chối các đề nghị quay trở lại dùng các biện pháp ngừa thai.
Đức trong sạch tôn trọng tầm quan trọng và sức mạnh của tình dục. Nó nhận ra hai mục đích song hành của tính dục là sinh sản và kết hợp với nhau. Việc sử dụng biện pháp ngừa thai phá vỡ cả hai mục đích này. Người ta không bao giờ đạt được sự kết hợp toàn vẹn bằng cách tiếp tục làm những hành vi kết hợp nửa vời. Cũng như tình dục trước hôn nhân làm nhạt nhòa đi các mức độ thân mật, các biện pháp ngừa thai cũng có tác dụng như thế. Sự ngừa thai giết chết món quà tình dục hoàn hảo. Trong hôn nhân, sự ngừa thai hủy diệt tình dục dần dần bằng cách tách biệt mục đích trao ban sự sống của tình dục ra khỏi hành vi vợ chồng.
Thao túng tình dục, dù là trong hôn nhân hay ngoài hôn nhân, biến nó thành cái gì khác với chính nó thì sẽ giết chết sức mạnh, chiều sâu và vẻ đẹp của tình dục.
16 Smith, Janet. “Đức Giáo hoàng Phaolô VI, vị Ngôn sứ: Để lời tiên tri mạnh mẽ của Humanae Vitae thành sự thật”. Trung tâm Nhân lực Giáo dục Công giáo (catholiceducation.org).
17 Smith, Janet. “Ngừa thai: tại sao không thể?” Tháng 5/1994. Trung tâm Nhân lực Giáo dục Công giáo (catholiceducation.org).
18 Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh. “Theo vết bệnh dịch giấu ẩn: Các khuynh hướng của bệnh lây qua đường tình dục ở Hoa Kỳ năm 2000” (cdc.gov)
19 Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ. “Hướng dẫn kiểm soát sinh sản”, Tháng 8/2002 (fda.gov).
20 Evert, Jason Nếu Anh Thật Sự Yêu Em, Ann Arbor, Mich.: Charis Books, 2003, trang 149. Tổ chức về Ung thư vú Susan G. Komen “Hoóc-mon ảnh hưởng đến ung thư vú thế nào”, 14/11/2003 (komen.org).
21 Đức Giáo hoàng Phaolô VI, Humanae Vitae, đoạn 16.
22 Các phương pháp xác định thụ thai dựa vào các dấu hiệu tự nhiên, dù người phụ nữ đang cố gắng để thụ thai hay ngăn ngừa việc có thai. Phương pháp quan sát khoa học, đều đặn về nhiệt độ cơ thể căn bản, chất nhờn âm đạo và cổ tử cung, vị trí của tử cung làm cho việc xác định thời kỳ thụ thai và không thụ thai trở nên đáng tin cậy.
23 Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, số 2370.
Leave a Reply