Một nghiên cứu mới của Mỹ khẳng định rằng người nữ bước vào hôn nhân còn trinh khiết có nhiều khả năng nhất để không đi vào ly dị sau 5 năm sống đời hôn nhân – và có khả năng dài hơn nữa. Thực vậy, theo như thống kê của 30 năm vừa qua hôn nhân của những người bước vào hôn nhân còn trính khiết có kết quả tốt hơn, vì tỷ lệ ly dị của những người nữ này đã giảm từ 11% trong những năm của 1980 xuống 6% trong những năm 2000.
Tác giả của cuộc nghiên cứu này của nhà Xã Hội Học Nicholas H. Wolfinger tại University of Utah cho biết tôn giáo là lý do cho kết quả đó – một chủ đề không mấy được ai ưa thích. Dữ liệu của ông, lấy từ ba đợt khảo sát của National Survey of Family Growth (NSFG)/ Khảo sát Quốc Gia về sự tăng trưởng của gia đình cho thấy người nữ bước vào hôn nhân còn là trinh nữ thì thường tham dự việc thờ phượng ít nhất một lần một tuần. Thật buồn, ngày càng có ít những người này hơn. Bốn thập kỷ trước, 21% cô dâu đã không có bạn tình trước hôn nhân. Đến năm 2010, con số đó đã giảm xuống còn 5% biểu trưng cho những phụ nữ đạo đức nhất.
(Lúc này bạn có thể hỏi, nam giới thì sao? Wolfinger giải nghĩa “NSFG không có đầy đủ dữ liệu về hành vi tình dục của nam giới trước hôn nhân và hơn nữa những gì nam giới nhớ về lịch sử hôn nhân của họ thì ít đáng tin cậy hơn nữ giới.”
Như bạn có thể dự đoán, nhóm người tiếp theo có khả năng có hôn nhân tồn tại lâu dài là những người nữ chỉ có một người bạn tình trước đó – trong hầu hết các trường hợp người bạn nam đó là người chồng tương lai của họ. Tuy nhiên, con số của những người này giảm tử 43% trong những năm 1970 xuống đến 22% trong những thập kỷ gần đây.
Nguồn: NSFG, 2002-2013/p>
Các số liệu thống kê của những năm 1970 có thể làm chúng ta ngạc nhiên, như chúng đã làm Ông Wolfinger ngạc nhiên. Mặc dù cách mạng tình dục đã khởi hành mạnh mẽ, Ông Wolfinger nói, gần 2 phần 3 những cô dâu chỉ có nhiểu lắm là một người bạn tình trước hôn nhân trong những năm 1970.
“Ngay cả trong những năm 1980, không quá nửa số phụ nữ có tối đa của một người bạn tình trước khi kết hôn. Nhưng tình huống thay dổi rất nhiều vào lúc bắt đầu của thiên niên kỷ mới.”
Vào những năm 2010, con số các cô dâu đã có nhiều đối tác tình dục tăng lên cách đáng kể. Những người đã có 10 đối tác tình dục hoặc nhiều hơn tăng từ 2% đến 18%. Như bạn có thể đoán được, nhóm này có tỷ lệ ly dị sau 5 năm kết hôn cao nhất – nhưng chỉ từ những năm 2000. Trước đó, người phụ nữ với hai đối tác trước khi kết hôn có tỷ lệ ly hôn cao nhất – khoảng 30% – so với những người có nhiều đối tác hơn.
Điều này cũng rất là ngạc nhiên, Wolfinger thừa nhận. Ông đưa ra một vài lý do:
* Phụ nữ với hai đối tác trước khi kết hôn có thể đã có một đứa trẻ trước khi họ kết hôn, và điều này được biết là có một “hiệu quả tiêu cực sâu sắc đối với hạnh phúc hôn nhân” và cũng đem lại nguy cơ cao hơn của việc ly hôn.
* “Over-emphasised comparisons/Cách so sánh nhấn mạnh sự khác biệt:”
“Trong hầu hết các trường hợp, người nữ có hai đối tác quan hệ tình dục trước hôn nhân: chồng tương lai của cô và một người đàn ông khác. Đối tác quan hệ tình dục thứ hai này là một bằng chứng trực tiếp cho cô về người có thể thay thế chồng của cô. Những kinh nghiệm tình dục này thuyết phục người nữ rằng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là một sự rất có thể. Người nam có liên quan có thể đã trở thành một đối tác trong quá trình của một mối quan hệ có thể đưa đến hôn nhân, người nữ có xu hướng có quan hệ tình dục “tình một đêm” sẽ cuối cùng có nhiều hơn là hai người trước hôn nhân – vì thế nhấn manh việc thay thế người chồng của mình là điều rất có thể. Tất nhiên, người nữ học biết về sự có thể của quan hệ tình dục ngoài hôn nhân nếu họ có nhiều đối tác trước hôn nhân, nhưng với việc có nhiều đối tác, mỗi người biểu trưng một phần nhỏ của tiểu sử tình dục và lãng mạn của người nữ. Có hai đối tác có thể dẫn đến tình trạng không biết chắc, nhưng có thêm vài đối tác nữa đưa đến sự rõ ràng hơn về người đúng để kết hôn. Tỷ lệ ly hôn thấp nhất khi không có bạn tình hoặc một người, nếu không thì cứ thế mà lãng mạn dường như cũng tương thích với việc có một hôn nhân tồn tại.”
Có thể tồn tại ít nhất 5 năm. Nhưng điều này không còn là thực tiễn (theo thống kê) khi có hơn 10 đối tác: “Có nhiều đối tác có nghĩa là rất nhiều quá khứ cùng đi với bạn và làm cho việc có một hôn nhân ổn định khó xảy ra hơn.” Ông Wolfinger dự đoán thêm về liệu sự tương quan này là thực hoặc không, và nêu ra rằng sự khác biệt giữa nhóm người nữ có nhiểu đối tác trước hôn nhân và những người nữ với hai người bạn tình trước hôn nhân khi nói đến ly hôn khi không đáng kể.
Tuy nhiên, kết luận là: “Tỷ lệ ly hôn thì thấp nhất khi không có hoặc chỉ có một người bạn tình trước hôn nhân.
Cuối cùng, Ông Wolfinger lưu ý rằng những phát hiện vẫn đáng tin cậy sau khi xem xét các ảnh hưởng khác của những đặc điểm về xã hội và nhân khẩu của người nữ. Tuy nhiên, một vài những yếu tố này có khả năng giải nghĩa hơn những đặc điểm khác.
“Ngoài tôn giáo ra, chủng tộc và gia đình họ xuất thân có ảnh hưởng cao nhất trong tương quan bạn tình và ly hôn. Người da trắng và người gốc Phi Châu Mỹ có hành vi trước hôn nhân giống nhau. Nhưng những người Nam Mỹ và thành viên của nhóm dân số “khác” có ít đối tác tình dục và tỷ lệ hôn nhân thấp hơn là nhóm người da trằng hoặc da đen. Cũng vậy, những người lớn lên không có cả hai cha mẹ có nhiều đối tác tình dục hơn và ly hôn nhiều hơn. Những dữ liệu tâm lý chi tiết thì cần thiết để giải nghĩa rõ hơn về mối tương quan giữa con số đối tác tình dục và sự ổn định của hôn nhân.”
Có lẽ người ta có thể kết luận rằng các yếu tố chủng tộc phần lớn được giải thích bởi cấu trúc gia đình. Có lý đễ nghĩ rằng khi người ta đến từ một gia đình không bị sứt mẻ, điểu này sẽ đưa đến cho người ấy một số bảo vệ về việc ly hôn. Và lối sống đạo đức làm cho sự bảo vệ ấy được mạnh hơn. Điều này thì không đáng ngạc nhiên…
Chuyển ngữ từ Keeping sex for marriage helps marriages last the distance
Leave a Reply