Thuật ngữ chuyển giới đã được mở rộng thành một thuật ngữ bao trùm bao gồm một số phạm trù, chẳng hạn như cross-dressers (là thuật ngữ để chỉ hành động mặc trang phục khác giới, là một dạng cosplay ăn mặc trái với giới tính của mình), transvestites (là từ dùng để chỉ những người luôn cảm thấy miễn cưỡng, khó chịu khi mặc trang phục của mình và chỉ thích mặc đồ của người khác giới) và transsexuals (người chuyển giới). Vì chuyển giới được xã hội chấp nhận nhiều hơn hầu hết các thuật ngữ trước đó, nên nó đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Ngày nay, nó cũng được sử dụng để bao gồm một loạt các phạm trù mới được tạo ra như genderqueer (những người không coi mình là nam tính hay nữ tính), song tính, toàn tính, linh hoạt về giới và nhiều phạm trù khác nữa.
Nhiều người cho rằng yếu tố di truyền hoặc nội tiết tố tạo ra cảm giác “không hợp giới”. Có một số bằng chứng khoa học ủng hộ cho giả định đó.10 Trong chương 5, chúng ta đã biết rằng hầu như mọi suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta đều có mối tương quan về mặt vật lý. Nhận thức được mối liên hệ giữa tâm trí và cơ thể có thể thúc đẩy chúng ta thể hiện lòng trắc ẩn với những người đang phải vật lộn với cảm xúc bức bối giới. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng khoa học nào kết luận chuyển giới là do gen hoặc bất kỳ yếu tố sinh học nào khác gây ra.
Quan trọng hơn, bản thân các nhà hoạt động chuyển giới lại lập luận ngược lại: Họ khăng khăng rằng sinh học không liên quan đến giới tính. Như chúng ta đã thấy trong chương 1 (có thể hữu ích khi đọc lại phần đó), các nhà hoạt động chuyển giới lập luận rằng không có mối liên hệ nào giữa cơ thể và bản dạng giới. Một video của BBC có cảnh một phụ nữ trẻ tự nhận mình là phi nhị giới nói rằng, “Bạn được sinh ra trong bộ xương thịt thế nào không quan trọng; điều quan trọng là cảm giác của bạn sẽ định nghĩa bạn”.11 Trong thế giới quan hai tầng này, tất cả những gì quan trọng là cảm giác của bạn. Cơ thể bị hạ cấp thành “bộ xương thịt”. Không có sự tôn trọng nào dành cho bản chất tốt đẹp hoặc telos (mục đích) của cơ thể con người. Không có phẩm giá nào được trao cho những khả năng độc đáo vốn có ở nam hay nữ.
Chuyển giới hoàn toàn tách biệt giới tính khỏi giới tính sinh học.
Hầu hết các luật và chính sách SOGI đều nêu rõ rằng những người tuyên bố tình trạng chuyển giới không cần chẩn đoán y khoa, không cần hồ sơ về liệu pháp hormone hoặc phẫu thuật, không cần thay đổi giấy tờ pháp lý và không cần thay đổi ngoại hình. Như nhà nghiên cứu gia đình Glenn Stanton giải thích, “Bản dạng giới không tồn tại theo bất kỳ nghĩa khách quan hoặc định lượng nào. Đơn giản là không có tiêu chí về sinh lý, pháp lý, y khoa hoặc ngoại hình mà một người chuyển giới phải đáp ứng để được phân biệt đúng là như vậy. ‘Thực tế’ đó chỉ tồn tại trong tâm trí của cá nhân đưa ra tuyên bố đó.”12 Nó không dựa trên các sự kiện sinh học mà hoàn toàn dựa trên cảm xúc bên trong.
10. J. N. Zhou et al., “A Sex Difference in the Human Brain and Its Relation to Transsexuality,” Nature (November 2, 1995). Một số người suy đoán rằng sự phát triển của não bộ về giới tính của một đứa trẻ có thể đi theo một con đường khác với giới tính của cơ thể. “Sự khác biệt giới tính sinh học của cơ quan sinh dục diễn ra trong hai tháng đầu của thai kỳ," nhà nghiên cứu Dick Swaab tại Viện Khoa học Thần kinh Hà Lan ở Amsterdam viết, "và sự khác biệt giới tính sinh học của não bộ bắt đầu từ nửa sau của thai kỳ." Do đó, cơ quan sinh dục và não bộ chịu tác động bởi các môi trường khác nhau của "hoóc-môn, chất dinh dưỡng, thuốc, và các chất hóa học khác," cách nhau vài tuần trong bụng mẹ, điều này có thể ảnh hưởng đến sự khác biệt giới tính sinh học. Được trích dẫn trong bài viết của Robin Marantz Henig, How Science Is Helping Us Understand Gender,” National Geographic, January 2017.
Tuy nhiên, sự thật là, cho đến thời điểm này, không ai biết chính xác nguyên nhân gây ra chứng chuyển giới. Khó khăn với các giải thích về di truyền học là tình trạng này hiếm gặp đến mức các nghiên cứu có ảnh hưởng nhất chỉ bao gồm sáu hoặc bảy cá nhân. Ngoài ra, các nghiên cứu này còn liên quan đến những đối tượng đang tham gia các hành vi của người khác giới và sử dụng liệu pháp hoóc-môn nữ tính hóa có khả năng đã ảnh hưởng đến các vùng não bộ được nghiên cứu, Về bản tóm tắt về nghiên cứu, xem Mark Yarhouse, Understanding Gender Dysphoria (Downers Grove, IL: InterVarsity Press, 2015), chapter 3.
11. “Boy or Girl?” YouTube video, 1:40, uploaded by BBC The Social, October 24, 2016, https://www.youtube.com/watch?v=udI-Go8KK2Q&feature=youtu.be, italics added.
12. Glenn Stanton, “5 Reasons Target’s Trans Bathroom Policy Really Stepped In It,” The Federalist, April 29, 2016.
Leave a Reply