Nếu một phần ba số thanh thiếu niên tự tử là người đồng tính, tại sao chúng ta không chấp nhận họ để việc ấy không phải xảy ra?
Trước hết, chúng ta phải nói rằng dù chỉ 1% những người tự tử là đồng tính, họ đáng được chúng ta thông cảm và tôn trọng. Đó là điều trước hết. Tiếp đến, chúng ta phải nói rằng con số 33% là con số sai lệch. Trang web Courage có bài viết: “Thống kê năm 1989 từ Task force on Youth Suicide of the U.S. Department of Health and Human Services (Lực lượng đặc nhiệm về vấn đề tự tử của thanh thiếu niên của Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh) đã cho biết một phần ba trong số những vụ thanh niên tự tử là vì họ tin rằng họ là người đồng tính. Chính phủ (nước Mỹ) đã nhanh chóng bác bỏ trình báo ấy vì nó không có nghiên cứu kỹ càng nào minh chứng cho lời tuyên bố đó, và cuối cùng được biết nó là tin đồn được tung ra do hai người hoạt động ủng hộ đồng tính. Các phương tiện thông tin đã tung tin về cuộc nghiên cứu nhưng đã chẳng bao giờ báo cáo về sự bác bỏ của chính phủ.
Nhưng càng quan trọng hơn, tôi không nghĩ rằng ủng hộ các hành vi tình dục giữa những người đồng tính sẽ giảm số lượng tự tử. Ví dụ, nhìn vào những người giao hợp với người khác giới: nghiên cứu cho biết “Những người tuổi thiếu niên có hoạt động tình dục thường kém hạnh phúc hơn, dễ bị trầm cảm và dễ có nguy cơ muốn tự tử hơn. Những bạn nữ tuổi thanh thiếu niên có quan hệ tình dục thì bị trầm cảm gấp ba lần và muốn tự tử gấp ba lần so với những cô gái tuổi thanh thiếu niên không có quan hệ tình dục. Những bạn nam tuổi thanh thiếu niên có quan hệ tình dục thì dễ bị trầm cảm và có ý muốn tự tử gấp 10 lần so với những bạn nam không có quan hệ tình dục.”[1]
Nếu các bạn thanh thiếu niên thích người khác giới có quan hệ tình dục có tỉ lệ tự tử và trầm cảm hơn những bạn thanh thiếu niên không có quan hệ tình dục, thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên cái khuôn mẫu ấy cũng được thấy nơi những thanh thiếu niên có khuynh hướng đồng tính (nhiều người trong số họ không cảm thấy sự cần thiết của việc sống kiêng cử). Biện pháp ở đây không phải là để tán thành hành vi tình dục ở tuổi vị thành niên mà là để thấy được tại sao họ lại lựa chọn lối sống ấy, và để giúp họ tìm ra được những nguyên nhân sâu sa hơn, bất kể khuynh hướng tình dục của họ.
Chẳng hạn như, một thăm dò dư luận gần đây về những người nữ đồng tính tìm thấy rằng 37% đã gánh chịu sự đối xử tàn nhẫn về thể xác và 32% đã bị cưỡng hiếp hay bị tấn công về tình dục, 19% đã là nạn nhân của loạn luân khi còn trẻ (bởi người trong gia đình). Đây là nguồn gốc của những nỗi đau đớn khủng khiếp và có thể đóng vai trò quan trọng vào việc dẫn một người đi vào cảnh trầm cảm. Thật là thiếu quan tâm và thiếu tình nghĩa khi chỉ mong chờ sự tán thành lối sống của quan hệ tình dục đồng giới mà quên đi việc giải quyết những nguyên nhân và vấn đề sâu xa hơn này. Bởi vì quá thường hằng, ai nấy cũng thường dùng quan hệ tình dục để làm tê đi một phần nào những nỗi đau thương quằn quại trongcuộc đời.
Tôi đồng ý với các bạn rằng thái độ của xã hội đối với đồng tính luyến ái có ảnh hưởng với tỉ lệ tự tử của những người có khuynh hướng đồng tính. Không thể hoài nghi rằng những hành động bạo lực, khước từ đối với người đồng tính đã dẫn một số đến việc tự ghét mình. Tất cả mọi người, đặc biệt Kitô hữu, có trách nhiệm lớn lao để sửa chữa, thay đổi sự bất công này với lòng yêu mến và sự cảm thông.
Trong khi những thành kiến chống lại đồng tính luyến ái có thể đóng một vai trò trong sự bất hạnh của họ, bằng chứng cho thấy rằng chính lối sống ấy còn làm sâu thêm nỗi đau thương sẵn có của họ nữa.
Ngày nay, phong trào đồng tính luyến ái ngày càng phổ biến và lan rộng hơn trước đây. Hai chục năm trước, mở TV và bạn nghĩ không ai trên trái đất là người đồng tính. Thời nay, media ngày càng nồng nhiệt thúc đẩy sự chấp nhận và sự đa dạng. Tuy vậy, tỉ lệ tự tử chẳng giảm sút. Lối sống đồng tính có thể rất công khai hôm nay, nhưng chẳng phải vì có sự ủng hộ bên ngoài mà cuộc sống trở nên dễ dàng hơn đối với những cá nhân có những cảm nhận ấy.
Tôi có thể hình dung mình là một chàng thanh niên trẻ, một thành viên trong gia đình, có nhiều bạn bè và có hấp lực đồng giới. Tôi nghĩ tôi sẽ cảm nhận được hai điều: sự cô đơn và lo sợ. Trong nỗi lo sợ của mình, tôi phân vân rằng giả sử như người ta bây giờ thực sự biết tôi, họ có thật lòng yêu tôi tí nào không…và vì bây giờ họ thực sự không biết tôi, thì liệu có ai thật sự yêu con người thật của tôi? Đường nào tôi chọn, dường như cũng không có lối thoát dễ dàng. Tôi có thể dễ dàng tiếp tục che giấu đi cảm nhận của mình và giả vờ như thể vẫn là người mà những người chung quanh nghĩ về tôi. Hay tôi có thể tỏ lộ cảm nhận về mình, và liều lĩnh chịu sự khước từ. Thật sự, niềm an ủi tôi có thể có là nhớ lời Chúa đã nói dù mẹ tôi và cha tôi có bỏ rơi tôi, Ngài vẫn luôn đón nhận tôi.
Mẹ Têrêsa Calcutta gọi người đồng tính là “bạn của Chúa Giêsu”, mẹ đã nói “Chúa Giêsu luôn yêu các bạn, dù cho các bạn không cảm thấy mình xứng đáng. Khi không được chấp nhận bởi người khác, ngay cả khi bạn cũng không chấp nhận chính mình, chính Ngài luôn đón nhận bạn. Chỉ cần bạn tin bạn quý giá đối với Ngài. Đem tất cả mọi nỗi buồn phiền đến với Ngài, đặt nó dưới chân Ngài, và mở rộng trái tim bạn để được Ngài thương yêu như bạn đang là trong hiện tại. Ngài sẽ làm tất cả những phần còn lại.”
Mẹ Têrêsa đã yêu thương những người có sự lôi cuốn với người đồng tính, nhưng Mẹ vẫn kêu mời họ sống trong sạch. Thật vậy, chính vì mẹ yêu họ nên mẹ đã mời gọi cho thực hành trong sạch. Sẽ là một lòng trắc ẩn giả dối khi nói với người khác rằng bạn có thể tìm sự toại nguyện cho cuộc sống bằng lối sống ngoài thánh ý của Chúa.
Thật không may mắn khi nền văn hóa thời nay đang xối vào mặt chúng ta lời dối trá rằng nếu chúng ta không có quan hệ tình dục với bất cứ ai ta muốn, thì chúng ta đã bị cướp mất tự do, bị xét đoán, và rồi chúng ta sẽ không bao giờ đáng được yêu hay được hiểu thấu. Họ nói với chúng ta rằng những người khuynh hướng đồng tính chỉ có hai lối đi: tình dục bừa bãi, hay sống trong sự bao phủ của sợ hãi. Nhưng có một cách sống khác và nó chứa đầy hy vọng. Bạn có thể đọc về một người sống đời sống đó ở đây.
[1]. Facts About Abstinence Education, Robert Rector, The Heritage Foundation, Web Memo 461. See www.heritage.org/research/family/cda0304.cfm for research.
Leave a Reply