Cha mẹ của Brandon cũng dạy cậu về lịch sử để chỉ ra rằng nhiều khuôn mẫu chỉ là phát kiến của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. (Họ đã sử dụng chương 12 trong cuốn sách Total Truth của tôi.)66 Trong các xã hội tiền công nghiệp, hầu hết công việc được thực hiện tại trang trại gia đình hoặc trong các ngành công nghiệp gia đình, nơi chồng và vợ làm việc cùng nhau. Công việc không chỉ dành riêng cho người cha; đó là ngành công nghiệp gia đình. Kết quả là, phụ nữ tham gia vào lao động sản xuất kinh tế, trong khi nam giới tham gia nhiều hơn vào việc nuôi dạy và giáo dục trẻ em so với hầu hết mọi người ngày nay.
Điều đã thay đổi tất cả những điều này là Cuộc cách mạng công nghiệp. Nó đã đưa công việc ra khỏi nhà—và sự thay đổi có vẻ đơn giản đó đã thay đổi đáng kể các vai trò giới tính. Những người cha phải theo công việc của họ ra khỏi nhà vào các văn phòng và nhà máy, điều đó có nghĩa là họ không còn tham gia chặt chẽ với gia đình nữa. Phụ nữ không còn được tiếp cận với công việc tạo ra thu nhập tại nhà trong khi nuôi dạy con cái. Kết quả là vai trò của cả nam giới và phụ nữ bị hạn chế rất nhiều—điều này dẫn đến các định nghĩa hẹp hơn về nam tính và nữ tính.
Nhiều người trẻ bức bối giới ngày nay đang chống lại những tàn dư của những khuôn mẫu hẹp hòi của thế kỷ 19 này. Cha mẹ của Brandon đã trấn an anh rằng anh không cần phải cảm thấy áp lực phải sống theo bất kỳ vai trò xã hội nào đang thịnh hành trong bất kỳ giai đoạn lịch sử cụ thể nào—kể cả của chúng ta.
Mỗi giai đoạn lịch sử đều có cách riêng để định nghĩa sự khác biệt về giới tính. Khi tôi còn nhỏ, anh em tôi cùng đi chung một chiếc xe ba bánh. Ngày nay, xe ba bánh của con gái có màu hồng với hình dán Công chúa Disney trong khi xe ba bánh của con trai có màu xanh lá cây với hình dán Ninja Rùa đột biến. Trẻ em có thể bị ép vào những định nghĩa giới tính hẹp hòi đến ngột ngạt. Mason, một trong những học sinh của tôi, người đã đấu tranh với việc trở thành người không điển hình về giới tính, đã bình luận rằng: “Điều trớ trêu là chính những khuôn mẫu cứng nhắc đó đã đẩy những người trẻ không tuân theo chuẩn mực giới tính vào vòng tay của cộng đồng chuyển giới hoặc đồng tính” trong hành trình tìm kiếm cảm giác được thuộc về và chấp nhận.
Thật không may, các nhà thờ ngày nay thường gửi cho những người trẻ những thông điệp trái ngược nhau. Như Mark Yarhouse đã lưu ý trong Hiểu về rối loạn giới tính, một mặt, có những hội thánh cố gắng hết sức để trở nên bao dung và nhân ái đến mức họ phản ánh những quan điểm thế tục phá bỏ giới tính và giới tính. Mặt khác, có những hội thánh “phản ứng quá mức” bằng cách trở nên nghiêm khắc hơn, hẹp hòi hơn và cứng nhắc hơn trong việc thực thi các vai trò giới tính.67 Chúng ta phải cẩn thận trước việc tôn thờ các kỳ vọng về giới tính. Những kỳ vọng này trên thực tế chỉ là phát kiến của thời đại lịch sử nhất định.68
Kitô hữu nên đi đầu trong tư duy sáng tạo để khôi phục lại những định nghĩa phong phú hơn về ý nghĩa của việc trở thành một người đàn ông hay một người phụ nữ. Giáo Hội nên là nơi đầu tiên mà những người trẻ tuổi có thể tìm thấy sự tự do khỏi những khuôn mẫu con người—cũng như ý nghĩa của việc được tạo ra theo hình ảnh của Chúa như những con người toàn diện và được cứu chuộc.
Vì tôi biết Brandon trực tiếp, tôi đã chứng kiến tận mắt nỗi đau khổ và sự cô lập mà anh ấy phải chịu đựng vì chứng rối loạn định dạng giới tính của mình. Trong nhiều năm, tôi là một trong số ít người có cơ hội sát cánh cùng cậu, khóc cùng cậu, đau khổ vì cậu và cầu nguyện cho cậu. Như Yarhouse viết, “Nếu bạn muốn một người [đang đau khổ vì sự bức bối giới] được cứu chuộc, bạn hãy trở thành một cộng đồng tạo điều kiện cho người đó được cứu chuộc.”69 Ngay cả khi phải mất nhiều năm.
66. See also Nancy Pearcey, “A Plea for Changes in the Workplace,” Pro-Life Feminism: Different Voices,ed. Gail Grenier Sweet (Toronto: Life Cycle Books, 1985); and Nancy Pearcey, “Why I Am Not a Feminist (Any More),” Human Life Review, Summer 1987.
67. Yarhouse, Understanding Gender Dysphoria,155. See also Vaughan Roberts, Transgender (UK: The Good Book Company, 2016).
68. “Tất cả các nghiên cứu về sự khác biệt giới tính… đều nhất quán cho thấy rằng, ngay cả khi có những sự khác biệt có ý nghĩa về thống kê giữa phụ nữ và nam giới, thì những khác biệt này vẫn mờ nhạt về mức độ so với sự khác biệt giữa phụ nữ và giữa nam giới.” Heather Looy and Hessel Bouma III, “The Nature of Gender,” cited in Yarhouse, Understanding Gender Dysphoria, 37, italics added.
69. Yarhouse, Understanding Gender Dysphoria, 154.
Leave a Reply