Rất nhiều nghiên cứu làm chứng cho thực tế rằng trẻ em được lớn lên trong gia đình không có cha và mẹ sẽ có nhiều khó khăn hơn trong cuộc sống. Vấn đề bao gồm những hành vi tội phạm cho đến việc nghiện nghập và khó khăn tâm lý. Có "cha mẹ" cùng giới tính không giải quyết được nhiều khó khăn trên. Ví dụ, nếu một đứa được nhận nuôi bởi cặp đồng tính, làm sao mà đứa trẻ có sự hiểu biết lành mạnh về cương vị làm cha và cương vị làm mẹ? Đứa trẻ sẽ có khao khát tự nhiên để có sự hiện diện của một người cha hoặc mẹ, nhưng sẽ gặp khó khăn để biểu lộ ao ước đó mà không cảm thấy mình vô ơn bạc nghĩa. Đứa trẻ thậm chí sẽ cảm thấy mắc tội khi ao ước điều đó.
Rosie O’Donnell (nữ diễn viên hài người Mỹ) nhận nuôi một bé trai, và khi được hỏi cô sẽ đối phó như thế nào nếu bé trai đến 6 tuổi se hỏi “Con muốn có một người bố.” Câu trả lời của cô ấy là: “Nếu con muốn một người bố, con sẽ không có mẹ là mẹ của con bởi vì mẹ là kiểu ngưởi mẹ muốn có một người mẹ khác. Đây là cách mẹ của con đã được sinh ra.” Bé trai nói: “Vậy được, con sẽ giữ mẹ làm mẹ.”[1]
Đứa bé trai đã được trả lời rằng nếu nó muốn một người bố, nó phải khước từ mẹ nuôi của nó. Cô ta cũng chia sẻ rằng đứa bé trai của cô bây giờ biết rằng: “Có nhiều loại người khác nhau; rằng em lớn lên trong bụng dạ của một người nữ khác, và khi Chúa nhìn vào trong đó và thấy có sự nháo nhào và vì thế Chúa đã đem em ấy đến với tôi.” Nói cách khác, Chúa không muốn nó có một người bố.
Có một trường hợp của một bé trai được nhận nuôi bởi một cặp đàn ông đồng tính được xuất bản trong tạp chí American Journal of Orthopsychiatry. Bài viết tựa đề “Recreating Mother/Tạo dựng lại người mẹ” giải nghĩa rằng một trong những người bố mướn bảo mẫu để chăm sóc cho bé, nhưng ông ta đã cho bà vú nuôi nghỉ việc khi bé trở nên quá quyến luyến với bà ấy. Việc này xảy ra 3 lần và đứa bé phải đi đến một nhà trị liệu vì em có vấn đề tâm lý lúc em 4 tuổi bởi vì em ấy muốn “mua” một người mẹ.[2]
Một nơi khác, trong báo The New York Times Magazine, một câu chuyện thành công khi kể về một trong hai chị em được nuôi dưỡng bởi cặp đồng tính nữ. Tuy nhiên, một trong hai đứa bé thừa nhận rằng khi cô được 16 tuổi, cô viết: “Tôi không thể hiểu hoặc có quan hệ với người nam vì tôi quá bị ngập chìm trong văn hoá đồng tính và không quen thuộc với việc có quan hệ với người khác giới có nghĩa là gì.”[3]
Chỉ vì cặp vợ chồng là đồng tính nam hoặc nữ, không có nghĩa là họ có quyền để nhận con nuôi. Rất nhiều người nam đồng tính có khả năng làm một người cha tận tâm và cũng có nhiều người nam không đồng tính là những người cha tàn nhẫn. Nhưng mỗi một người con đáng được có một người cha và một người mẹ. Đây không phải là một lý tưởng mơ mộng nhưng là cách thân xác chúng ta được dựng nên và là mục đích của bất cứ nền văn minh lành mạnh nào. Ảnh hưởng của người mẹ trong gia đình không thể thay thế được, và điều đó cũng tương tự cho người cha. Hai người mẹ không làm nên một người cha, và hai người cha không trở thành một người mẹ. Đây là quy định mà thiên nhiên đã đặt ra. Nếu hai người nam đồng tính mà đã có thể có con với nhau thì họ đã được dự dịnh như vậy. Cũng vậy đối với cặp đồng tính nữ. Điều này nghe có vẻ đơn thuần, nhưng nó là quy luật tự nhiên và tôi tin chắc chắn rằng mọi sự được dựng nên theo cách riêng của nó vì nó có lý do riêng của nó. [Bấm vào đây để đọc thêm].
Khi xem xét chủ đề về nhận con nuôi cho cặp vợ chồng hay cặp đồng tính, tiêu chuẩn trước hết phải là sự khoẻ mạnh về mọi phương diện của đứa bé, vượt trên ước muốn hay “quyền” của cặp muốn làm cha làm mẹ. Nếu hoàn cảnh gia đình họ không ổn định thì đó phải là một lý do rất nghiêm trọng để ngăn ngừa việc nhận con nuôi. Trong cuốn sách, Sexual Ecology: AIDS and the Destiny of Gay Men/Tình dục sinh thái: AIDS và vận Mệnh của người đàn ông đồng tính, tác giả Gabriel Rotello, người đồng tính viết, “Chúng ta có hẳn một chương trình đã được lên kế hoạch đầy đủ để dựng nên một xã hội mà trong đó đồng tính luyến ái được coi là lành mạnh, hợp với tự nhiên và bình thường. Đối với tôi, đây là một chương trình quan trọng nhất.”[4] Tim Dailey, thuộc Family Research Council (Hội Đồng Nghiên Cứu về Gia Đình), tán thành và nói “Những người hoạt động cho phe đồng giới cố gắng đểtrình bày lối sống của họ là bình thường và lành mạnh, nó tương đồng với quan hệ tình dục nam nữ trong mọi khía cạnh/phương diện. Hollywood và media không ngừng phổ biến hình ảnh của một người đồng tính luyến ái trẻ trung cân bằng, khoẻ mạnh, và có khả năng thích ứng với xã hội.”[5]
Nhưng hình ảnh này có thực tế không? Mối quan hệ đồng tính thường là bất ổn. Ví dụ: một nghiên cứu trên 156 người đồng tính nam (những người trong các quan hệ kéo dài từ 1 đến 37 năm) khám phá rằng không một ai trong quan hệ dài hơn 5 năm chung thuỷ với nhau.[6] Và một nghiên cứu khác tìm thấy rằng trung bình trong quan hệ đồng tính độ dài thời gian họ sống chung với nhau thì ít hơn ba năm. Bên cạnh tỉ lệ cao của việc bất trung và tách lẻ, quan hệ đồng tình có khuynh hướng liên quan đến lạm dụng, vấn đề sức khoẻ, nghiện thuốc và nghiện rượu hơn. Để đọc thêm bấm vào đây và đây.
Để tổng hợp những nghiên cứu này, Tim Dailey viết: “Những bệnh tật làm suy nhược, bệnh mãn tính, những vấn đề tâm lý, và sự chết sớm mà những người đồng tính gánh chịu là di sản của việc tuyên truyền sai lạc thảm thương này. Và cái kế hoạch ở trên nhằm mục đích “cứu” cuộc sống của những người đồng tính bởi những người đại diện cho chủ trương ủng hộ quyền lợi của giới đồng tính càng làm cho mục đích này trở nên xa vời hơn. Những người muốn chủ trương chấp nhận những hành vi đồng tính cách hoàn toàn đã làm giảm nhẹ bằng chứng không thể bàn cãi và ngày càng rõ rệt về những hậu quả trên sức khoẻ, những hậu quả nghiêm trọng và nguy hiểm đến mạng sống, liên quan đến lối sống của hành vi đồng tính. Những nhóm chủ trương lối sống đồng tính có trách nhiệm về mặt tinh thần để truyền bá những thông tin về y học để có thể giúp thuyết phục những cá nhân không dính líu và không nên tiếp tục trong lối sống vốn sẵn gây nguy hiểm tới sức khỏe. Những uỷ viên trong ngành giáo dục, cách đặc biệt, có trách nhiệm để cung cấp những thông tin về hậu quả tiêu cực đến sức khoẻ cho học sinh của họ, những người mà đời sống đang gặp nguy hiểm qua việc liên quan đếnnhững hành vi này. Trên hết, chính xã hội có trách nhiệm để lập nên những chính sách nhằm nâng cao sức khoẻ và sự lành mạnh về mọi mặt của người công dân.”[8]
Về việc cặp đồng tính nhận con nuôi, mỗi đứa bé có quyền để có cha mẹ. Nhưng không phải mỗi người trưởng thành đều có quyền để có một đứa con.
_____________
[1]. “ABC Primetime Thursday” interview with Diane Sawyer (March 14, 2002).
[2]. Eisold, B K “Recreating Mother,” The American Journal of Orthopsychiatry 68:3 (July 1998), 433-42
[3]. Susan Dominus, “Growing Up With Mom and Mom," The New York Times Magazine (October 24, 2004).
[4]. Gabriel Rotello, Quoted in Sexual Ecology: AIDS and the Destiny of Gay Men, (New York: Penguin Books, 1997), p. 286.
[5]. Family Research Council, Monday, "The Negative Health Effects of Homosexuality," Tim Daily, October 13, 2003.
[6]. David P. McWhirter and Andrew M. Mattison, The Male Couple: How Relationships Develop (Englewood Cliffs, New Jersey: Prentice-Hall, 1984), pp. 252, 3.
[7]. M. Saghir and E. Robins, Male and Female Homosexuality (Baltimore: Williams and Wilkins, 1973), 225; L.A. Peplau and H. Amaro, "Understanding Lesbian Relationships," in Homosexuality: Social, Psychological, and Biological Issues edited by J. Weinrich and W. Paul (Beverly Hills: Sage, 1982).
[8]. Family Research Council, Monday, "The Negative Health Effects of Homosexuality," Tim Daily, October 13, 2003.
Leave a Reply