Khi nói về giới tính ngày nay, một trong những câu hỏi đầu tiên bạn có thể nghe thấy là “Vậy còn người liên giới tính thì sao?” Có một tỷ lệ rất nhỏ những người sinh ra với bộ phận sinh dục không rõ ràng hoặc chưa hình thành đầy đủ do bất thường về gen và nội tiết tố. Do đó, các bác sĩ có thể không chắc chắn về giới tính của trẻ sơ sinh. (Những người này trước đây được gọi là người lưỡng tính.) Phương pháp điều trị tiêu chuẩn là “chỉ định” giới tính và tiêm hoóc-môn cùng phẫu thuật thẩm mỹ để đứa trẻ có được sự phù hợp với giới tính đó.
Trong nhiều cuộc tranh luận, sự tồn tại của những người liên giới tính đang bị lợi dụng để phá vỡ sự phân biệt giới tính nam/nữ. Họ thường được nhắc đến như những người chuyển giới để củng cố tuyên bố rằng không chỉ có nam và nữ mà còn có một số giới tính khác.
Nhưng tuyên bố đó lại tự mâu thuẫn. Liên giới tính là một tình trạng sinh học, trong khi những người hoạt động vì quyền của người chuyển giới khẳng định rằng sinh học không liên quan đến bản dạng giới.
Hơn nữa, những người liên giới tính không kêu gọi xóa bỏ giới tính nhị phân. Theo Hiệp hội Liên giới tính Bắc Mỹ, “Những người liên giới tính hoàn toàn thoải mái khi chấp nhận bản dạng giới tính nam hoặc nữ, và họ không muốn một xã hội phi giới tính hay tự coi mình là thành viên của một nhóm giới tính thứ ba.”70
Nếu bạn tự hỏi cụm từ “giới tính được chỉ định khi sinh ra” đến từ đâu, thì cụm từ này được mượn từ cách người ta dùng cho trẻ sơ sinh liên giới tính. Thuật ngữ “được chỉ định” có thể hữu ích trong một tỷ lệ nhỏ các trường hợp mà bộ phận sinh dục của trẻ sơ sinh thực sự mơ hồ. Tuy nhiên, áp dụng nó cho những người khi sinh ra đã rõ là nam hoặc nữ về mặt sinh học thì thật là vô nghĩa. Những người chuyển giới có các dấu hiệu sinh học điển hình (ví dụ: gen di truyền, tuyến sinh dục, cơ quan sinh dục) đều đồng nhất với nhau (ví dụ: di truyền, tuyến sinh dục, bộ phận sinh dục).71
Thuật ngữ y khoa chính xác hơn cho liên giới tính là “rối loạn phát triển giới tính” (disorder of sex development, DSD) và những Kitô hữu thường giải thích nó, giống như các rối loạn khác, là kết quả của tội tổ tông. Trong một thế giới mà con người sa ngã, tất cả chúng ta đều sinh ra với những khiếm khuyết và trục trặc ở nhiều bộ phận khác nhau của tâm trí và thân xác – bị yếu tim, dễ bị trầm cảm, có xu hướng huyết áp cao. Thế giới này không hoàn hảo. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi sự sa ngã có ảnh hưởng rõ ràng trên hệ thống sinh sản.
Khi một tình trạng nào đó là kết quả của tội tổ tông, nó không phải là lỗi của ai cả. Như Chúa Giêsu đã nói về người mù từ khi mới sinh, đó không phải là hình phạt trực tiếp cho tội lỗi của cá nhân (xem chương 5). Phần lớn đau khổ của con người là do tạo vật “rên siết” trong “lệ thuộc vào cảnh hư nát” (Rô-ma 8:22, 21). Kitô hữu được mời gọi để đón nhận và hỗ trợ những người liên giới tính và những người khác đang phải chịu đựng sự đổ vỡ của tạo vật.
Tuy nhiên, ngay cả một số Kitô hữu cũng đang sử dụng sự tồn tại của những người liên giới tính để làm rối loạn sự khác biệt của nam/nữ. Nhà thần học Megan DeFranza lập luận rằng những tình trạng liên giới tính không phải là hậu quả của sự sa ngã mà là một phần trong sự sáng tạo tốt đẹp ban đầu của Chúa. Theo quan điểm của bà, Chúa không chỉ tạo ra nam và nữ mà còn tạo ra những giới tính khác. Bà coi hệ thống nhị phân nam/nữ là “sự đàn áp.”72
Đúng là quá trình sáng thế ban đầu đã có các biến thể di truyền tiềm năng, vậy nên mới tồn tại nhiều giống chó, nhiều giống hoa hồng khác nhau, và nhiều chủng tộc người khác nhau trong lịch sử. Tuy nhiên, cũng có những tình trạng xuất phát từ đột biến, lỗi sao chép, và các sự cố khác trong mã di truyền. Có thể kết luận hợp lý rằng các tình trạng liên giới tính đều không có vẻ lành mạnh.
Ngay cả DeFranza, trong một cuốn sách về chủ đề này, luôn mô tả liên giới tính bằng các thuật ngữ như “thiếu sót”, “trục trặc”, “không có khả năng” và “thiếu hụt.” Ví dụ, Hội chứng kháng androgen (AIS) xảy ra khi các cá nhân “không có khả năng xử lý hormone nam (androgen)” vì “tế bào của họ thiếu các thụ thể thích hợp.” Hoặc một lần nữa, Tăng sản thượng thận bẩm sinh (CAH) là “một tình trạng do thiếu hụt enzyme, gây ra rối loạn ở tuyến thượng thận của thai nhi, dẫn đến việc sản xuất quá mức androgen.” Đây là một trường hợp cấp cứu y tế thực sự trong giai đoạn sơ sinh. CAH có thể gây mất nước nghiêm trọng dẫn đến tử vong trong những tuần đầu tiên của cuộc đời trẻ sơ sinh.”73 Ngôn ngữ mô tả hầu hết các tình trạng liên giới tính cho thấy rằng chúng là những sự đổ vỡ do sự sa ngã của Ađam và Evà.
70. April Herndon, “Why Doesn’t ISNA Want to Eradicate Gender?” Intersex Society of North America, FAQ, http://www.isna.org/faq/not_eradicating_gender.
71. Một báo cáo nộp cho Ủy ban Châu Âu vào năm 2011 cho biết: “Người liên giới tính khác với người chuyển giới vì tình trạng của họ không liên quan đến giới tính mà liên quan đến cấu tạo sinh học (đặc điểm di truyền, hormone và thể chất) của họ.” Cited in Emily Greenhouse, “A New Era for Intersex Rights?,” The New Yorker, December 30, 2013.
72. Megan DeFranza, Sex Difference in Christian Theology: Male, Female, and Intersex in the Image of God (Grand Rapids: Eerdmans, 2015), 144.
73. Ibid., 25, 30, 31, italics added.
Leave a Reply