Có ba điều cần xem xét.
Trước hết, hãy tìm xem con số 10% đến từ đâu. Người đề nghị con số này là Alfred Kinsey. Trong những năm của thập kỷ 1940, khi ông ta làm “nghiên cứu” của mình, phần đông dân số vẫn không quá cởi mở để tiết lộ về đời sống tình dục của họ. Ông ấy phải tìm nơi ông ta có thể có dữ liệu.
Ông ta tìm được con số 10% bằng cách lấy mẫu từ 5300 người nam da trắng. 2800 người trong số của họ là tội phạm tình dục hay những tội phạm khác. Ông ta cũng tìm những mại dâm nam, và những người cổ võ đồng tính luyến ái tại các quán rượu cho người đồng tính. Từ nhóm người này, ông ta đi đến kết luận rằng 10% nam giới là đồng tính luyến ái. Chẳng cần tốn nhiều lời, những người đã xem xét phương pháp của ông ta chẳng được thuyết phục tán thành cái kết luận của ông.
Thứ hai, con số thực sự cho người đồng tính thấp hơn nhiều so với đề nghị của Ông Kinsey. Paul Cameron đã viết cuốn sách tựa đề The Gay Nineties và trong đó ông ước tính rằng con số trung bình toàn quốc cho nam giới là 3% và cho nữ giới là 1.5%.
Bất kể tỉ lệ phần trăm nào của dân số là đồng tính, điều này không xác định tính luân lý của những hành vi của con người; con số không xác định lời dạy của Giáo hội. Chẳng hạn như, nếu 10% dân số ăn cắp hàng hóa tại cửa hàng, điều này không làm cho hành vi này trở nên việc đúng luật. Giáo Hội không nhìn vào văn hóa thời đại để xác định lời dạy của mình. Giáo Hội nhìn vào mặc khải của Chúa trong Kinh Thánh và Thánh Truyền.
Thứ ba, bất kể tỉ lệ trên thế giới của con số người đồng tính luyến ái, mọi người phải được cư xử với danh dự, tôn trọng, yêu mến và tất cả được gọi để sống đời thánh thiện.