Các nghiên cứu phát hiện ra rằng mối tương quan mạnh nhất giữa khuynh hướng đồng giới và chuyển giới – mạnh hơn nhiều so với bất kỳ liên kết di truyền nào – là sự không tuân thủ giới tính thời thơ ấu, những đứa trẻ cư xử theo khuôn mẫu của giới tính khác.82 Một người bạn nam đã đấu tranh nhiều năm với sự hấp dẫn đồng giới đã nói với tôi, “Khi còn nhỏ, tôi thích thơ ca và âm nhạc. Bố tôi bối rối và liên tục cố gắng ‘làm tôi cứng rắn hơn’ bằng cách thúc đẩy tôi chơi thể thao và các hoạt động truyền thống khác của con trai.”
Tương tự như vậy, Christopher Yuan khám phá những điều có thể là nguyên nhân của cảm xúc đồng tính luyến ái của mình: “Suốt thời tiểu học và lên đại học, tôi chưa bao giờ được chấp nhận hoàn toàn. Tôi nhạy cảm, mọt sách và tệ trong thể thao, và tôi yêu âm nhạc và nghệ thuật.”83
Những đứa trẻ không tuân thủ này lớn lên với cảm giác không đồng điệu với các tiêu chuẩn thịnh hành về nam tính hoặc nữ tính.84 Các em cần sự hỗ trợ và đồng cảm khi chúng vượt qua cảm giác đau đớn vì bị xa lánh. Các giáo xứ nên khuyến khích họ coi trọng tính khí độc đáo của mình và chống lại áp lực coi đó là bằng chứng cho thấy họ phải là người chuyển giới hoặc đồng tính.
Sau khi trở thành Kitô hữu, tôi đã theo học một trường Tin Lành, nơi một người bạn học là một người lãnh đạo Hướng đạo sinh. Tình bạn sâu sắc nhất của cô ấy là với những người lãnh đạo Hướng đạo sinh giống như cô ấy – những người phụ nữ thích hoạt động ngoài trời, khỏe mạnh, độc lập và không hề điệu đà hay nữ tính. Bạn tôi cảm thấy xa lạ với lý tưởng của Kitô giáo về người phụ nữ Kitô hữu. Cô ấy và ba người lãnh đạo Hướng đạo sinh khác, tất cả đều là Kitô hữu, cuối cùng đã tự coi bản thân là người đồng tính nữ.
Nhưng liệu những người lãnh đạo Hướng đạo sinh này có thể nhầm lẫn tính khí với khuynh hướng tình dục không? Một học sinh của tôi tên là Liam, người đã đấu tranh với cảm xúc khác giới, đã nói rằng: “Xã hội Mỹ đang có nguy cơ tình dục hóa những gì thực sự chỉ là đặc điểm tính cách – dán gắn mọi người vào một khuôn khổ tính dục dựa trên những đặc điểm và hành vi không liên quan đến tính dục.”
Trong nhiệm thể của Chúa Kitô, chúng ta nên tôn vinh sự đa dạng rộng rãi của các kiểu tính cách Chúa ban cho, ngay cả khi chúng không phù hợp với các khuôn mẫu hiện tại. Mắt không phải là tai, và tay không phải là chân (xem 1 Cô-rin-tô 12:12–27). Sự đa dạng đó là một điều tốt. Mỗi thành viên trong nhiệm thể Chúa Kitô đều có những năng khiếu riêng và có những đóng góp riêng biệt.
82. “Trẻ em ớn lên trở thành người không dị tính thường không tuân thủ cách sống theo giới tính [của minh] nhiều hơn cách đáng kể, so với trẻ em lớn lên trở thành người dị tính, theo trung bình…” J. Michael Bailey et. al, “Sexual Orientation, Controversy, and Science” Psychological Science in the Public Interest 17 no. 2 (2016): 45–101.
Còn những người đàn ông trước đây rất nam tính rồi sau đó mới công khai là người chuyển giới, như Bruce Jenner thì sao? Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM-V) chia những người bị rối loạn định dạng giới tính thành hai loại. Những người bị rối loạn định dạng giới từ sớm thường không tuân thủ giới tính từ thời thơ ấu. Nhưng họ cũng có khả năng cao giải quyết được những cảm xúc đó khi trưởng thành. Những người bị rối loạn định dạng giới muộn thường tuân thủ giới tính từ nhỏ. Thực tế, họ có xu hướng rất nam tính, làm việc trong các ngành như quân đội, thực thi pháp luật hoặc thể thao. Họ thường kết hôn và có con trước khi quyết định chuyển giới, và có thể bắt đầu bằng việc mặc đồ khác giới. Xem Yarhouse, Understanding Gender Dysphoria, trang 96–99. Bruce (Caitlyn) Jenner dường như là một ví dụ cho loại thứ hai. See “‘He’d Wear Women’s Clothes, Shoes, and Lingerie’: Bruce Jenner, ‘the Secret Cross-Dresser,’” The Daily Mail,January 11, 2002.
Một số người có thể cảm thấy hưng phấn khi mặc đồ của giới tính khác (tức là như một loại ái vật). Có thể đây là nhóm mà Kinh Thánh đề cập đến khi nói rằng, “Đàn bà không được mặc quần áo đàn ông ; đàn ông không được mang y phục đàn bà, vì hễ ai làm những việc ấy thì là điều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA” (Deut. 22:5).
83. Yuan and Yuan, Out of a Far Country,20.
84. “Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy số lượng nam giới tìm đến việc chuyển giới cao gấp ba lần so với nữ giới.” Nicola Tugnet et al., “Current Management of Male-to-Female Gender Identity Disorder in the UK,” Postgraduate Medical Journal 83, no. 984 (October 2007). Cả rối loạn định dạng giới lẫn đồng tính luyến ái đều có xu hướng phổ biến ở nam giới hơn nữ giới trong lịch sử, có thể vì các tiêu chuẩn về giới cho nam giới thường hẹp và nghiêm ngặt hơn. Việc một cô gái là tomboy được xã hội chấp nhận nhiều hơn rất nhiều so với việc một cậu bé là “ẻo lả” hoặc “nữ tính.” Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tỷ lệ các bé gái tìm kiếm điều trị tại các phòng khám về giới đã tăng vọt. Một số nghiên cứu đã được tóm tắt trong bài viết này: “Why Are More Girls Than Boys Presenting to Gender Clinics?” 4thWaveNow (blog), July 10, 2015, https://4thwavenow.com/2015/07/10/why-are-more-girls-than-boys-presenting-to-gender-clinics/.
Một số người cho rằng 1 Cô-rin-tô 6:9, trong đó sử dụng từ “effeminate / ẻo lả,” có thể áp dụng cho người chuyển giới. Nhưng Harper cho rằng ý nghĩa của từ Hy Lạp này không thể dịch trực tiếp: malakos, “người mềm yếu,” ám chỉ một người đắm chìm trong những thú vui thái quá. Theo một tài liệu cổ, “trên hết và với sự tự chủ ít ỏi nhất,” người đó bị chi phối bởi “một sự điên cuồng sắc bén và bỏng rát vì ham muốn tình dục, khao khát giao hợp với cả phụ nữ lẫn đàn ông.” From Shame to Sin, 97–98.
Leave a Reply